Một thảo luận bài viết "Từ Đảng Cộng sản ban đầu đến Đảng Cộng sản hiện nay" - Dân Làm Báo

Một thảo luận bài viết "Từ Đảng Cộng sản ban đầu đến Đảng Cộng sản hiện nay"

Nguyễn Nghĩa 650 (Danlambao) - Đó là bài viết của Thiếu tướng cộng sản Nguyễn Trọng Vĩnh, 96 tuổi, đăng trên boxitvn.net ngày 27/12/2012. Nhìn vào tuổi tác và những trọng trách mà ông thiếu tướng này đã từng đảm nhiệm, thì nọc tố độc hại (Mác nói là "opium"- thuốc phiện) của CNCS vẫn còn ngấm trong xương cốt của ông là điều dễ hiểu.

Để góp một ý kiến về vai trò của ĐCSVN trong giai đoạn lịch sử vừa qua, tôi xin gửi một bình luận bài viết này đến bạn đọc. 

1. Bình luận về mệnh đề: 

"Có những phần tử chống cộng cực đoan phủ định toàn bộ Đảng CSVN, họ nhắm mắt trước thời kỳ huy hoàng của Đảng CS Đông Dương, Đảng Lao động VN (cũng là Đảng cộng sản). Họ không thấy được sự hy sinh dũng cảm và công lao to lớn của Đảng đối với dân tộc. ĐCS sinh ra vì nước vì dân, không phải vì lợi ích riêng tư nào của Đảng."/xem BVN/ 

Trước hết phải khẳng định rằng học thuyết cộng sản do Mác và Lênin khởi xướng, sau này được bảo dưỡng bởi nhà nước cộng sản Liên Xô là một học thuyết độc hại, gây xáo trộn cả thế giới trong hơn một thế kỷ qua. 

Học thuyết này không có tính khoa học với những phỏng đoán suy diễn, gán ghép về tính tiên tiến, tính cách mạng của giai cấp vô sản. Ngày hôm nay, chính những người công nhân của nước Nga, Ba Lan, Đức, Tiệp, Rumani, Bungari... đã bác bỏ học thuyết vô sản này bằng các hành động như giải tán ĐCS Liên Xô, phá bức tường Béc Lanh, các cuộc biểu tình của Công đoàn Đoàn kết... 

Học thuyết này là học thuyết của bạo lực với cốt lõi lý luận của nó là "Chuyên chính vô sản". Đây là học thuyết phi nhân bản. Nó cho phép những người theo học thuyết này có thể tước đoạt của cải, tính mạng... của một nhóm lớn người trong xã hội nhân danh công bằng xã hội. 

Thực ra, quan hệ giữa chính quyền cộng sản và người dân trong chế độ cộng sản là sự nối tiếp của quan hệ nhà nước phong kiến với người dân nô lệ. Không có sự thay đổi về chất. Chỉ có sự thay đổi về tên gọi, về hình thức. 

Những gì xảy ra ở Campuchia, ở Trung Quốc hay cải cách ruộng đất ở Việt Nam,... rồi xua đuổi hàng trăm nghìn người Việt xuống thuyền... là những bằng chứng về tính tàn bạo của học thuyết cộng sản. 

Học thuyết cộng sản Mác Lê nin là học thuyết không phù hớp với bản chất con người. CNCS nhằm xây dựng một nhà nước kiểu mới, dựa trên Công hữu. Bản chất của con người từ hàng triệu năm tiến hóa, từ vượn người trở lại đây, là tư hữu. Chính vì vậy, sự phá sản của kinh tế XHCN là tất yếu. Ước mơ một xã hội cộng sản thịnh vượng, mà mọi người có thể " làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu" là ước mơ hão huyền của Mác, kẻ chỉ biết ăn bám vào của hồi môn của người vợ mình. 

CNCS đã bị lên án ngang với chủ nghĩa phát xít do những tàn phá của nó mang lại cho loài người. Hầu hết các nước tiên tiến trên thế giới đã đặt chủ nghĩa này ra ngoài vòng pháp luật. 

Với khẩu hiệu "cách mạng vô sản toàn cầu", CNCS là lá bài mị dân hoàn hảo, giúp các nước lớn, có mộng đế quốc, dương nó lên, khi kéo quân xâm lược các nước nhỏ khác. Trung Quốc đang xài tiếp tục lá cờ cộng sản này là lý do như vậy. 

Vậy thì, ĐCS VN, kẻ theo học thuyết cộng sản Mác Lênin là đáng lên án. Hơn nữa, những gì mà ĐCS VN đã thí nghiệm trên cơ thể dân tộc Việt Nam trong thời gian qua, là đáng lên án 100 lần. 

Tướng Vĩnh có kể một số thành tích của ĐCSVN. 

Cần phân biệt rõ rằng: trong số những người cộng sản thế hệ 1, thì đại đa số không hiểu gì về thực chất của CNCS. Bằng chứng là sự ấu trĩ trong phong trào "Vô sản hóa". Đại đa số các đảng viên ĐCSVN thế hệ 1 là những người Việt Nam yêu nước nồng nàn. Họ đến với ĐCSVN vì tin tưởng ở khả năng cứu nước của ĐCSVN, trong khi giới sĩ phu phong kiến đã mất uy tín làm lực lượng lãnh đạo cứu quốc. Chỉ có một số rất ít những đảng viên được đào tạo ở Liên Xô như Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong..., là có căn bản về CNCS của Mác Lê Nin. 

Tướng Vĩnh có thể tự kiểm nghiệm lại bản thân mình. Khi ông ta gia nhập ĐCSVN, ông đã hiểu gì về học thuyết cộng sản này chưa? Ông đã hiểu gì về nhiệm vụ của giai cấp vô sản Việt Nam, trong khi những công nhân lao động trong nền công nghiệp nhỏ bé Việt Nam chỉ là một nhúm con con. 

Thành tích của ĐCSVN trong giai đoạn đầu là do lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam và sự hi sinh quên mình những đảng viên yêu nước, đặt độc lập dân tộc làm mục đích tối thượng của đời họ. 

Những người cộng sản này không biết rằng, có một nhóm các lãnh tụ cộng sản Việt Nam đang mưu sâu kế hiểm, đem quyền lợi của dân tộc Việt Nam hiến dâng cho CNCS, cho cách mạng vô sản thế giới. 

Tướng Vĩnh đã không hiểu điều này và không hiểu nổi sự cướp đoạt công lao của Nhân dân Việt Nam, cướp đoạt công lao của những đảng viên, mà họ vào đảng chỉ do lòng yêu nước thúc đẩy, hoàn toàn không có liên quan gì đến CNCS. 

Sự cướp đoạt công lao này được các con cáo già, lọc lõi chính trị, học ở Liên Xô về, thi hành. 

Bằng chứng là câu nói của Hồ Chí Minh tại Đại hội ĐCS 1951: Đây là chủ nghĩa của 3 ông kia kìa. 

Rồi họ tiêu diệt tất cả các tiếng nói phản biện (Nhân văn giai phẩm, tiêu diệt các lực lượng phản biện xã hội...) và choàng ách cộng sản lên dân tộc Việt Nam. 

Đây là sự tiếm đoạt quyền lực theo hình mẫu phong kiến. 

Được làm vua, Thua làm giặc. 

Nhân dân Việt Nam lại trở về ách nô lệ dưới các khẩu hiệu to tướng như Nhà nước của dân, Dân làm chủ mà Đảng chỉ lãnh đạo... 

Trong bài viết của mình, tướng Vĩnh còn in đậm dòng chữ: "ĐCS sinh ra vì nước vì dân, không phải vì lợi ích riêng tư nào của Đảng." 

Ông Vĩnh đã nhầm. Đã lấy tôn chỉ cộng sản, thì ĐCS VN phải đặt lợi ích của giai cấp vô sản thế giới là lợi ích cao nhất. 

Mà lợi ích của giai cấp vô sản thế giới là gì? sẽ do Liên Xô phán quyết. 

Như vậy ĐCS VN có lợi ích riêng tư của mình chứ không phải không có. 

Có thể ban đầu, những thanh niên yêu nước, sáng lập ĐCS VN, đã ngây thơ tin rằng: dùng lý thuyết của CNCS, họ sẽ tìm ra con đường dành lại độc lập cho Việt Nam. 

Nhưng sau này, khi gia nhập cộng đồng cộng sản thế giới, họ đã bị bất buộc phải bán rẻ lợi ích dân tộc Việt Nam cho 1 cuộc các mạng vô sản ở phương trời nào, không ai biết. 

Còn dân tộc Việt Nam thì không cần đến cái lý thuyết lạ lẫm, do các ông "nhiều râu" đặt ra. Ở đây, chỉ có 1 điều đơn giản này: Việt Nam không có giai cấp vô sản như cách hiểu của Mác và Lênin. 

Ông Vĩnh còn viết: “nhân dân hết lòng tin yêu Đảng.” 

Ông Vĩnh phải nhớ rằng tình yêu này được xây dựng trên sự dối trá. 

Tuyên truyền cộng sản theo kiểu: sự dối trá tuyên truyền tốt sẽ trở thành sự thực. 

Thử hỏi; Nếu công hàm Phạm Văn Đồng được đăng tải trên công luận 1958, nếu trí thức Việt Nam không bị đàn áp, thì bộ mặt thật bán nước của ĐCS VN đã bị bóc trần từ những năm 50 rồi. Sự tin yêu ở giai đoạn này đối với ĐCSVN là không thực chất. Nhân dân Việt Nam đã tin yêu đại bộ phận những người đảng viên yêu nước thực sự, không có mầu sắc cộng sản. 

Đánh đổ tầng lớp địa chủ là cương lĩnh của ĐCS VN. 

Tàn bạo với nhân dân là cốt lõi của chuyên chính vô sản. 

Khởi đầu của cách mạng vô sản là tiêu diệt tầng lớp nòng cột của nông thôn Việt Nam suốt hàng nghìn năm lịch sử. 

Tầng lớp địa chủ. 

Giọt nước mắt của HCM sau CCRĐ là giọt nước mắt cá sấu. 

Hình tượng HCM là hình tượng của tuyên truyền cộng sản, của tệ sùng bái cá nhân, của thần thánh hóa một con người bình thường. 

Hôm nay, những người cha gia đình gương mẫu, lao động cần cù, bền bỉ gìn giữ sự phát triển của của gia đình, nuôi dậy con cái những điều hay, lẽ phải... có thể tự hào rằng: ta có đạo đức gia đình cao hơn HCM. 

Hôm nay, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức..., đã và đang bị tù tội vì lòng yêu nước Việt Nam, đã có số ngay bị giam cầm nhiều hơn những ngày HCM ngồi tù. 

Thực tế, trong thành công của HCM có phần rất quan trọng đóng góp của tổ chức cộng sản quốc tế. 

Việc này, hôm nay dân tộc Việt Nam đang trả giá. 

Những giả dối này sẽ bị thời gian bóc trần, đẩy vào lãnh quên. 

Những lãnh đạo của ĐCS VN thế hệ đầu tiên đã đoạn tuyệt với truyền thống dân tộc, với các bài học cảnh giác mất nước của dân tộc Việt Nam trước bành trướng TQ. 

Họ đã nhận viện trợ của TQ. 

Chính Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh đã tạo các tiền lệ hữu nghị với TQ để hôm nay BCT ĐCSVN đưa TQ vào Tây Nguyên, vào các cánh rừng chiến lược biên giới, vào các tỉnh thuộc Hoàng Liên Sơn, vào Cam Ranh, để cho TQ chiếm Hoàng Sa, Trường Sa... 

Cuộc chiến đấu sinh tồn của tộc Việt trên bán đảo Đông Dương, sau sự tiếm đoạt quyền lực vào tay ĐCS VN, đang gặp lúc nguy cấn. 

Máu của ông cha ta đã đổ hàng nghìn năm nay có cơ bị uổng phí. 

Mồ hôi xây dựng quốc gia Đại Việt của hàng trăm thế hệ người Kinh, có thể trở thành vài trang của lịch sử thế giới, như các bộ tộc da đỏ tại Châu Mỹ. 

Không phải hoàn toàn tại TQ. Hàng nghìn năm nay, người TQ bành trướng luôn rình dập trên biên giới phía bắc nước ta. 

Hàng nghìn năm nay, ông cha ta, cha truyền con nối, luôn dạy nhau bài học cảnh giác Mỵ Châu Trọng Thủy, bài học đoàn kết Diên Hồng, bài học lấy ít địch nhiều, lấy đoản binh thắng trường trận, bài học nhìn thế địch mà chống địch: nếu thấy chúng tiến sang như tằm ăn rỗi, thì phải chọn tướng giỏi, toàn dân, toàn quân trên dưới 1 lòng mà cự địch... Hàng nghìn năm nay, Đại Việt vẫn cứ " Nam quốc sơn hà, Nam Đế cư”, "Cùng Hán Đường Tống Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương". 

Hôm nay vận nước đã như trứng để dưới đá, như ngàn cân treo vào sợi tóc. 

Tất cả là tại ĐCS VN. 

TBT Nguyễn Phú Trọng đã hợp tác toàn diện với TQ. Ông ta đã hiến dâng các tỉnh biên giới phương bắc cho TQ trong Tuyên bố chung VN-TQ 15/10/2011. TBT Nông Đức Mạnh đã đưa TQ vào Tây Nguyên. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và BCT ĐCSVN đã trao các cánh rừng chiến lược quốc phòng cho TQ... 

Một diện tích lớn đất đai biên giới phía bắc và một phần lãnh hải Việt Nam tại Vịnh Bắc Bộ đã bị ĐCS VN bán cho TQ trong hiệp định biên giới và Vịnh Bắc Bộ 2000. 

Hoàng sa bị TQ chiến hoàn toàn, 9 đảo tại Trường Sa cũng đã bị TQ xâm lược. 

Để vận nước rơi vào tình huống nguy kịch như hiện nay, chính là "công lao" của ĐCS VN. 

2. Bác bỏ mệnh đề: 

“Đảng không có quyền gì và cũng không cần quyền” 

Như đoạn trên, tất cả các thành tích mà tướng Vĩnh liệt kê như Điện Biên Phủ, không chỉ do riêng công lao lãnh đạo của ĐCSVN. Nếu không có hàng trăm lượt dân công vận chuyển, nếu không có sự hi sinh quên mình của các chiến sĩ quân đội không đảng viên, nếu chỉ dựa vào một dúm các đảng viên thực sự tin và hiểu CNCS tiến hành vũ trang, thì ĐSCVN có làm nên trò trống gì không? 

Tướng Vĩnh viết rằng đảng "không cần quyền" thì ĐCS VN viết điều 4 vào Hiến pháp VN để làm gì. Nếu thực sự họ có một chút biến đổi CNCS mang mầu sắc Việt Nam, thì họ đã trả lại quyền lực cho dân tộc Việt Nam, người lập nên các chiến công mà ông Vĩnh đã mô tả. Nhưng không, họ cướp công của dân tộc này, đẩy người dân Việt Nam vào vị trí của những người nô lệ trong chế độ phong kiến. Người dân Việt Nam không có quyền gì hết, từ tự do ngôn luận, tự do có ý kiến phản biện chính phủ... đến tự do mưu cầu hạnh phúc của mình. 

Sự tin yêu của nhân dân Việt Nam ở giai đoạn này là sự tin yêu của một dân tộc vào những người yêu nước chân chính. ĐCS VN đã đánh tráo sự tin yêu này vào mình. Đảng CSVN rất tham quyền. 

3. Về chiến thắng 1975, cũng cần phải bàn lại. 

Tôi hỏi tướng Vĩnh: Tại sao có vĩ tuyến 17? 

Chính Phạm Văn Đồng đã đặt bút ký Hiệp đinh Giơ ne vơ 1954 theo sự ép buộc của TQ. Vậy thì chính ĐCS VN đã phản bội chính Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của mình, đã phản bội nhân dân Miền Nam. 

Đem cả dân tộc VN ném vào 1 cuộc chiến tranh vì sự toàn thắng của CNCS trên toàn bộ Việt Nam là tội ác lớn nhất của ĐCS VN. 

Tinh lực Việt Nam bị kiệt quệ. 

Để hôm nay có rất nhiều người Việt Nam thờ ơ trước sự mất còn của đất nước. 

Để hôm nay, Nguyễn Phú Trọng, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Chí Vịnh... giao dạy người Việt ta: thế nào là yêu nước, thế nào là "tri ân" với TQ... 

Khẩu hiệu "Không có gì quí hơn độc lập, tự do" trong những năm 70, đã bị lạm dụng. 

Người Mỹ không hề có ý định xâm lược lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam. 

Hôm nay chính là lúc phải dương khẩu hiệu này, chống cự lại quân xâm lược TQ, kẻ đã xâm lược đất biên giới, Hoàng Sa, Trường Sa... của Việt Nam. 

ĐCSVN đã lẫn lộn bạn và thù. 

Các ủy viên TW đã bỏ phiếu cho cúi đầu tri ân kẻ xâm lược, đưa Nguyễn Phú Trọng lên làm TBT. 

Họ cũng đã bỏ phiếu cho một Thủ tướng điều hành kém, làm Việt Nam suy nhược. 

Kết luận

ĐCS VN trước 1975 là tuổi trẻ của tướng Nguyễn Trọng Vĩnh. 

Ông Nguyễn Trọng Vĩnh không muốn vạch những xấu xa bản chất của ĐCSVN. 

Nhưng vì tương lai Việt Nam, chúng ta sẽ viết mãi, viết nhiều về những độc hại mà ĐCSVN gây nên cho dân tộc Việt Nam, với 1 mong muốn duy nhất là các thế hệ trẻ Việt Nam không bao giờ gập vào loại thuốc phiện độc hại này nữa. 

Từ đại tá Thanh, Nguyễn Chí Vịnh thanh minh cho sự bán nước của ĐCSVN, đến hôm nay ông Nguyễn Trọng Vĩnh nhắc nhở công lao của ĐCSVN. 

ĐCSVN đã hết chỗ dựa lý thuyết lại sai lầm về chiến lược bạn thù. 

Họ đã không còn khả năng lãnh đạo đất nước này. 




Bình Luận

Thời Sự

Chuyên đề

 
http://danlambaovn.blogspot.com/search?max-results=50
Copyright © 2014 Dân Làm Báo