Tại sao chúng ta phải thay đổi thể chế chính trị trước khi chống giặc ngoại xâm? - Dân Làm Báo

Tại sao chúng ta phải thay đổi thể chế chính trị trước khi chống giặc ngoại xâm?

Chu Chi Nam (Danlambao) - Đất nước và dân tộc đang đứng trước hiểm họa diệt vong, trong thì đảng cộng sản mặc tình cấu kết với ngoại bang bán đất dâng biển, hèn với giặc, ác với dân, giết hết tinh anh, triệt mọi cơ hội phát triển của người dân, ngoài thì Tàu cộng lộng hành, ngang nhiên kéo dàn khoan đến vùng biển Việt Nam. Con đường duy nhất để chống ngoại xâm là bằng mọi cách phải thay đổi thể chế chính trị, từ độc tài cộng sản qua Dân chủ Tự do, vì có như thế, giới lãnh đạo mới quy tụ được sức mạnh toàn dân, vận động được các quốc gia và cộng đồng yêu chuộng Tự do và Hòa bình trên thế giới cô lập và bẻ gãy mọi mưu mô bá quyền của Tàu cộng...

Sự quan trọng của thể chế chính trị trong đời sống con người, xã hội, văn hóa và văn minh

Nhiều người chưa ý thức rõ vai trò của thể chế hay chế độ chính trị trong đời sống con người và xa hơn nữa là xã hội, văn hóa, văn minh. Chính vì lẽ đó, mà chúng ta nên có một cái nhìn xét lại, rõ ràng hơn, nhất là trước nguy cơ bành trướng của Tàu cộng. Hơn nữa bài học trước mắt tại Ukrain, người dân đã xuống đường lật đổ chế độ độc tài, tham nhũng của Yanukovych, kẻ đã vì quyền lợi cá nhân, gia đình sẵn sàng bó gối quy hàng Nga, sau đó bầu ra vị tổng thống mới với chủ trương đoàn kết toàn dân, thân thiện với thế giới tự do, đối thoại bình đẳng với Nga để bảo toàn lãnh thổ.

Thể chế hay chế độ chính trị là mô hình tổ chức nhân xã, nói một cách dễ hiểu, là tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp của một cộng đồng con người.

Người ta thấy có chế độ độc tài, chế độ dân chủ. Trong chế độ độc tài có nghĩa là chế độ mà quyền hành nằm trong tay một người hay một nhóm người (oligarchie). Trong chế độ dân chủ là chế độ mà quyền hành nằm trong tay người dân, người dân có quyền quyết định số phận của mình, người ta thấy có dân chủ trực tiếp, như ở Thụy sĩ, những quyết định quan trọng đều do trưng cầu dân ý quyết định; và chế độ dân chủ gián tiếp, người dân bầu ra đại diện của mình, trong một nhiệm kỳ, những người được bầu này thay mặt dân lấy những quyết định. Hiện nay, phần lớn những chế độ dân chủ là những chế độ dân chủ gián tiếp.

Trong chế độ dân chủ gián tiếp, người ta thấy có chế độ tổng thống như ở Hoa kỳ, chế độ đại nghị như ở bên Anh và phần lớn ở các quốc gia trên thế giới. Người ta cũng có thể thêm chế độ nửa tổng thống chế, nửa đại nghị chế, như ở bên Pháp.

I. Sự quan trọng của thể chế chính trị trong đời sống con người

Thể chế chính trị giữ một vai trò tối quan trọng trong sự phát triển đời sống con người. Vì vậy có người ví thể chế chính trị như mảnh đất và người dân như hạt mầm. Con người dù là da vàng, da trắng hay da đen có thể ví như hạt mầm, nếu hạt mầm này được gieo vào một mảnh đất tốt, tức sống dưới một chế độ tốt, chế độ tôn trọng con người, những quyền căn bản của con người được bảo đảm, đồng thời được hướng dẫn, dìu dắt bởi một nền giáo dục tốt, một hệ thống an sinh xã hội tốt, thì hạt mầm này sẽ kết bông, nẩy trái. Ngược lại, nếu hạt mầm này được gieo trên một mảnh đất khô cằn, tức một thể chế chính trị xấu, không lo đến quyền lợi của người dân, mà chỉ lo đến quyền lợi của một số người, coi thường những quyền căn bản của con người, áp dụng một hệ thống giáo dục tuyên truyền nhồi sọ, đa số đời sống của người dân trở nên cơ cực, trong khi một thiểu số cầm quyền tiêu sài theo kiểu vất tiền qua cửa sổ, an sinh xã hội của dân không được bảo đảm, trẻ em sơ sinh thiếu dinh dưỡng, khi bệnh thì thiếu thuốc, không có bác sĩ, không dám đi nhà thương, thì tất nhiên hạt mầm này sẽ thui chột, chẳng khác nào được gieo trên một mảnh đất khô cằn, toàn là sỏi đá.

Ngày hôm nay, theo những nhà và viện nghiên cứu về dân chủ, thì chế độ dân chủ, mặc dầu không được coi là chế độ hoàn hảo nhất, nhưng nó được coi là chế độ hiện hành tốt nhất để giúp con người và xã hội phát triển.

Chúng ta hãy lấy thí dụ điển hình để dễ hiểu, hai chế độ chính trị Nam Hàn và Bắc Hàn. Chế độ Bắc Hàn là một chế độ cộng sản độc tài, người dân sống dưới chế độ này không những không thể phát triển được, mà hàng năm còn bị nạn đói hoành hành từ bao chục năm nay. Ngoài xã hội thì những hãng xưởng thiếu điện để chạy nhà máy, trong khi những công thự, những chỗ tôn thờ lãnh tụ, thì điện chan hòa cả ngày lẫn đêm. Giáo dục là một nền giáo dục nhồi sọ, từ trẻ em cho đến người lớn chỉ biết vâng lời, gọi dạ bảo vâng, nhắc lại những khẩu hiệu tuyên truyền rỗng tuếch.

Trong khi đó thì Nam Hàn hiện nay vô cùng phát triển. Chúng ta chỉ cần lấy một vài thí dụ điển hình: Nền khoa học kỹ thuật tân tiến hiện nay được coi là ngành điện thoại cầm tay, vì trong đó là cả một cái máy điện toán tối tân, thế mà Nam Hàn với hãng Samsung đứng đầu trong việc sản xuất và bán trên thị trường đã lâu, trên cả hãng Apple của Hoa kỳ và hãng Nokia của Phần Lan. Ngành xe hơi cũng vậy, hãng Kia của Nam Hàn, mặc dầu mới xuất hiện, nhưng số lượng bán cũng không thua gì những hãng quốc tế nổi tiếng lâu đời khác như hãng Général Motor, Toyota, Wolkswagen, Renault. Nam Hàn từ mấy chục năm nay đã nổi tiếng về giáo dục, người thợ Nam hàn có một trình độ hiểu biết tổng quát đứng đầu thế giới. Người chuyên viên Nam Hàn cần cù làm việc, chịu khó học hỏi, đi làm việc nơi nào cũng được trọng. Bằng cớ là hai tổ chức quốc tế quan trọng nhất thế giới là Liên Hiệp quốc và Ngân Hàng quốc tế, đều được cầm đầu bởi người Nam Hàn.

Được như vậy, tất nhiên do nhiều nguyên do, nhưng một trong những lý do chính, đó là dân Nam Hàn được sống dưới một chế độ tự do, dân chủ, mặc dầu chế độ này mới được thiết lập vào khoảng thập niên 80.

Không nói đâu xa, chúng ta trở về Việt Nam thời cận đại: Hai chế độ miền Nam Việt Nam trước năm 1975 là hai chế độ cộng hòa, Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng hòa. Hai chế độ này, vào thời đó có thể nói là 2 chế độ dân chủ, tất nhiên không thể so sánh với những nước dân chủ tiền tiến, nhưng nó là một trong những nước dân chủ đầu tiên ở châu Á, chỉ thua có Nhật. Chính vì vậy mà miền Nam cũng đã phát triển, hơn cả Nam Hàn và Đài loan lúc bấy giờ. Nếu tính theo sản lượng đầu người hàng năm thì vào cuối thời Đệ Nhất Cộng hòa, sản lượng của miền Nam Việt nam là 118 $, trong khi đó của Nam Hàn và Đài loan là trên dưới 80 $. Sự phát triển của miền Nam được ngay những người cộng sản công nhận, như ông Lê Đăng Doanh, "nhà kinh tế cộng sản", trong một bài phỏng vấn của đài BBC, cũng công nhận là sau 1975, ông vào thăm miền Nam đầu tiên, ông đã phải ngạc nhiên về trình độ phát triển, ông đi thăm những vùng quê, ông thấy nơi nào cũng có điện, có máy cày, đời sống người dân tương đối đầy đủ. Nhà văn Dương Thu Hương, cùng với "đoàn quân chiến thắng" vào miền Nam, trước đời sống dân miền Nam, bà đã sửng sờ, bà tìm một góc phố, như lời bà kể, để khóc, và sau đó tuyên bố: "Tôi đã cùng một đoàn quân chiến thắng, nhưng mô hình tổ chức xã hội của kẻ chiến bại lại văn minh hơn mô hình của kẻ chiến thắng".

Chính "Luật Người cày có ruộng" của thời Đệ Nhị Cộng hòa Việt nam đã được chính phủ Đài loan bắt chước và đem áp dụng thành công ở nước này. Chỉ tiếc rằng những gì đã được xây dựng ở miền Nam đã bị cộng sản đổ xuống sông, xuống biển. Chính vì vậy mà dân miền Nam đã có câu: "Năm đồng đổi lấy một xu, người khôn đi học, thằng ngu làm thầy".

Hiện nay cộng sản nói rằng đổi mới, nhưng thực sự là trở lại những thành quả của miền Nam trước kia đã đạt được, nhưng khập khiểng, vì thể chế chính trị vẫn là chế độ cộng sản độc tài, vẫn lấy lý thuyết Mác Lê làm nền tảng cho chế độ, như đã được ghi trong hiến pháp; giáo dục thì nhồi sọ, đạo đức thì suy đồi, an sinh xã hội thì không có.

Nếu chúng ta nói đến sự quan trọng của thể chế chính trị trong sự phát triển con người và xã hội, văn minh, văn hóa, thì chúng ta có thể dẫn chứng rất nhiều.

Ở đây tôi chỉ xin nhắc đến ông Alexis de Tocqueville (1805 - 1859), với hai quyển sách nổi tiếng "De la Démocratie de l’Amérique" (Về chế độ dân chủ ở châu Mỹ), viết từ năm 1835 tới 1840, và quyển "De l’Ancien Régime et la Révolution" (Về Chế độ cũ và Cách mạng) xuất bản năm 1856.

Sở dĩ tôi nói đến ông Tocqueville là vì hiện nay, đảng Cộng sản Trung cộng, nhất là Ban Tư tưởng và ý thức hệ đang khuyên các đảng viên đọc và suy ngẫm về quyển sách của ông, đặc biệt là câu trong quyển sách thứ nhì: "Giai đoạn nguy hiểm nhất cho một chế độ, đó là lúc mà nó bắt đầu cải tổ."

Theo Tocqueville, thì "Ý tưởng dân chủ, bắt đầu bằng sự công bằng điều kiện (égalités des conditions) là một cái gì thiêng liêng, không thể tước bỏ được và nó chính là một động lực làm cho những chế độ độc tài sụp đổ". Quyển sách về dân chủ Hoa kỳ là một quyển sách cho tới bây giờ, giới trí thức nước này vẫn cho là một trong những quyển sách hay nhất qua nhận xét, phân tích và tiên đoán về Hoa Kỳ.

Theo Tocqueville thì đây quả là một nền dân chủ gián tiếp, với một hiến pháp thành văn, tôn trọng những quyền căn bản của con người, tôn trọng tam quyền phân lập, và nhất là sự quân bằng quyền hành, giữa quyền trung ương và địa phương, giữa quyền hành pháp và lập pháp, giữa quyền lập pháp và tư pháp. Từ đó cho tới nay, không ai chối cãi rằng nền dân chủ Hoa Kỳ quả là một mảnh đất mầu mỡ cho mọi con người đến từ mọi chủng tộc, nẩy mầm và phát triển.

Với quyển sách thứ nhì, mà nay Ban Tư tưởng Trung ương Trung cộng đang yêu cầu cán bộ học hỏi, nói về tại sao chế độ cũ, tức chế độ quân chủ của vua Louis XVI Pháp lại sụp đổ. Câu trả lời của Tocqueville tất nhiên là vì chế độ này đã cấm đoán tự do. Tuy nhiên ông cũng cảnh cáo chế độ dân chủ là không nên mắc vào "nạn độc tài số đông" (despotisme de la majorité). Để tránh điều này thì nên có sự tản quyền, tôn trọng quyền tự do báo chí và làm thế nào để tam quyền phân lập rõ ràng và nhất là quyền tư pháp được độc lập.

Một câu hỏi đến với chúng ta là tại sao Ban Tư tưởng của Trung Ương đảng Cộng sản Trung cộng lại yêu cầu cán bộ học hỏi tư tưởng của Tocqueville và nhất là suy ngẫm câu vừa nói ở trên: "Thời điểm nguy hiểm nhất của một chế độ..." Vì đảng Cộng sản Tàu cũng ý thức rất rõ rằng mình không thể nào đi ngược lại trào lưu tiến bộ của văn minh nhân loại, đó là đi đến thể chế chính trị tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền, và từ đó tất nhiên là phải cải tổ, vứt bỏ tư tưởng Mác Lê Mao, chủ trương độc khuynh, độc đảng, độc tài. Tuy nhiên vấn đề là cải tổ thế nào để không đi đến cách mạng, làm sụp đổ chế độ, mất hết những đặc quyền, đặc lợi của một thiểu số người nắm quyền.

Đây là một vấn đề nan giải mà Tocqueville đã nhìn thấy và đặt ra với chế độ quân chủ Pháp thời vua Louis XVI và cho rằng một trong những lý do chính của sự sụp đổ chế độ là vì chế độ này bắt đầu cải tổ.

Từ cái nhìn của Tocqueville, chúng ta nhìn vào lịch sử cận đại.

Chúng ta thấy rằng lịch sử, trái lại với một số nhà tư tưởng cho rằng biến chuyển thế này thế nọ, theo đường thẳng, đường trôn ốc, theo óc tưởng tượng đã đánh đồng lịch sử với toán học, tóm gọn sự biến chuyển lịch sử qua một phương trình toán học, rồi từ đó suy đoán ảo tưởng, nhưng nhiều khi lịch sử chỉ là một sự lập lại, nếu chúng ta đem so sánh sự sụp đổ của đế quốc cộng sản Liên sô dưới thời Gorbatchev và sự sụp đổ của triều đình quân chủ Pháp Louis XVI.

Nhưng phải chăng trong lịch sử cận đại không có một chế độ độc tài nào tự sửa đổi, cải tổ để đi đến chế độ dân chủ mà thành công? Câu trả lời là có. Chúng ta chỉ cần lấy thí dụ gần chúng ta và chúng ta cũng biết đôi chút. Đó là Nam Hàn và Đài loan. Nam Hàn và Đài loan trước thập niên 80 là dưới chế độ độc tài.

Có người cho rằng, độc tài Nam Hàn và Đài loan là độc tài hữu, khác với độc tài Trung cộng và Việt Nam là độc tài tả, có sự khác biệt. Điều này không sai. Tuy nhiên trong chính trị, dù là tả hay hữu, nhất là người lãnh đạo, khi đã sáng suốt, có ý chí nhất quyết làm vì nước vì dân, thì cũng có thể làm nhiều chuyện, trong đó có cả việc thay đổi một chế độ.

II. Sự quan trọng của thể chế chính trị trong xã hội, văn hóa và văn minh nhân loại

Xã hội chúng ta có thể định nghĩa đơn giản là cách sống của một nhóm người có tổ chức, với những truyền thống, luật lệ, cơ chế, trải qua những thời đại. Nói một cách khác đi, đó là cách tổ chức xã hội con người ở vào một thời điểm nhất định nào đó, chính là chế độ, thể chế, tức cách tổ chức chính trị, kinh tế, luật pháp, văn hóa, xã hội.

Văn hóa, văn là đẹp, hóa là biến đổi, đây là tất cả những hành động của con người làm thăng tiến đời sống của mình trên hai phương diện vật chất và tinh thần. Một khi những hành động này có ảnh hưởng rộng lớn, trong một vùng, trải qua một thời gian dài, thì nó trở thành văn minh.

Văn cũng là đẹp, minh là chiếu sáng, có ảnh hưởng lâu dài và rộng lớn.

Một số sử gia và nhân chủng học cho rằng con người trải qua 5 thời kỳ văn minh:

Văn minh trẩy hái, vào lúc con người mới xuất hiện trên trái đất, sống trong hang đá, hái trái cây, săn bắn ở chung quanh để sinh sống.

Văn minh du mục: rồi cây trái, súc vật ở chung quanh cũng trở nên khan hiếm, con người phải đi xa để tìm kiếm, nó bước sang thời kỳ văn minh du mục.

Nhưng ngay dù đi xa để kiếm ăn, thức ăn cũng trở nên khó khăn, con người phải trồng trọt, nuôi súc vật. Nó bước sang thời kỳ văn minh định cư nông nghiệp.

Với nền văn minh này, con người đã có thể thỏa mãn những nhu cầu căn bản của mình, nghĩa là khi đói thì có ăn, khi lạnh thì có áo để bận, con người bắt đầu nghĩ đến những nhu cầu xa xỉ, muốn ăn ngon, mặc đẹp, con người trao đổi với nhau về những sản phẩm mình làm ra, có nghĩa là tôi trồng lúa mì để ăn, nhưng tôi thích ăn lúa mạch, thì tôi trao đổi với người trồng lúa mạch; tôi có thể dệt vải để mặc, nhưng thôi thích mặc lụa, thì tôi trao đổi với người dệt lụa. Con đường Gia vị, Con đường Tơ lụa nối liền đông tây trong lịch sử nhân loại, có nghĩa là thế. Từ đó con người bước sang nền văn minh trao đổi thương mại.

Ngày xưa, con người phải đi xa để trao đổi, nhưng từ ngày có phát minh ra điện, điện thoại, điện toán, con người không cần phải đi xa để trao đổi, con người bước sang nền văn minh tri thức điện toán, như ngày hôm nay.

Vào thời văn minh trẩy hái, du mục, canh nông, lao động chủ yếu là dùng sức mạnh bắp thịt chân tay. Nhưng bước sang văn minh thương mại, nhất là văn minh tri thức điện toán ngày hôm nay, lao động chủ yếu là tư tưởng, phát minh sáng kiến, từ đầu óc con người.

Mỗi một thời văn minh có một hình thức tổ chức nhân xã tương xứng. Thời văn minh trẩy hái, du mục, đó là chế độ gia tộc, bộ lạc. Bước sang thời kỳ văn minh định cư nông nghiệp, là chế độ quân chủ. Nhưng sang thời kỳ văn minh thương mại, tri thức, điện toán, đó là chế độ dân chủ, vì để trao đổi là phải có người khác, phải có đối thoại.

Socrate nói: "Nơi nào có đối thoại, nơi đó mới có tiến bộ và dân chủ" là như vậy. Nhất là vào thời kỳ văn minh tri thức điện toán ngày hôm nay, để phát minh, sáng kiến, con người bắt buộc phải sống dưới chế độ dân chủ, vì phải có tự do tư tưởng, trao đổi tư tưởng, công trình tìm kiếm, thì lúc đó con người mới có thể có những ý kiến mới. Voltaire cũng đã từng nói: "Tự do tư tưởng và ngôn luận là hai cột trụ chính của chế độ dân chủ."

Mỗi một mô hình tổ chức nhân xã là một bước tiến của nhân loại. Nhưng nếu kéo dài quá thì lại trở thành vật cản trở, như chế độ quân chủ là một bước tiến so với chế độ gia tộc và bộ lạc, nhưng kéo dài lâu quá thì trở thành lạc hậu, ngăn cản bước tiến của con người. Trong khi một chế độ như chế độ quân chủ kéo dài cả bao ngàn năm, không những lỗi thời, mà còn trở nên giết người, vì một thiểu số nắm quyền, muốn kéo dài đặc ân, đặc lợi, bổng lộc của mình, không ngần ngại dùng bất cứ thủ đoạn nào, từ thông tin tuyên truyền lừa bịp, đến dùng cái còng với công an và dùng cái súng với lính để đàn áp dân. Người ta nói: "Chế độ độc tài là chế độ của cái loa, cái còng và cái súng" là vậy.

Nhìn vào lịch sử cận đại, 2 chế độ cái loa cái còng và cái súng là chế độ độc tài phát xít Hitler và chế độ cộng sản. Cả hai đều dựa trên quan niệm triết lý, tư tưởng bất bình thường: Hitler cho rằng chủng tộc Aryen là chủng tộc tinh khiết, không pha trộn với những chủng tộc khác, nên thông minh. Đây là một điều vô cùng phản khoa học. Dân tộc Đức tiêu biểu cho chủng tộc này, nên thông minh, đáng để cầm đầu thế giới. Chính vì vậy nên Hitler đã không ngần ngại phát động chiến tranh khắp nơi. Marx thì cho rằng lịch sử con người là bạo động, là đấu tranh giai cấp, không ngần ngại mở đầu Bản Tuyên Ngôn thư Cộng sản: "Lịch sử nhân loại từ xưa tới nay là lịch sử của đấu tranh giai cấp." Đây cũng là một cái nhìn quá phiến diện và tổng quát hóa, chẳng có gì là khoa học, như những người cộng sản, bắt đầu bởi Marx thường rêu rao: "Khoa học lịch sử, khoa học biện chứng."

Không cần chứng minh dài dòng, chúng ta chỉ nhìn chính chúng ta và những người chung quanh, xét cuộc đời thì chúng ta rõ: Bình thường con người muốn sống hòa bình. Con người chỉ dùng bạo động trong những trường hợp bị bắt buộc, trường hợp bất bình thường. Điều này đúng với cả lịch sử của những quốc gia.

Marx và những người cộng sản đã lấy cái gì bất bình thường làm cái bình thường, nên từ lý thuyết cho đến chế độ đã trở nên bất bình thường, bệnh hoạn.

Đấy lại chưa nói đến ngay từ lúc đầu, chế độ cộng sản, bề ngoài thì mang nhãn hiệu "Thế giới đại đồng, Anh em cộng sản", nhưng bên trong là chủ nghĩa quốc gia cực đoan, bành trướng. Bề ngoài mang nhãn hiệu "Liên bang các cộng hòa xã hội Sô viết" ( URSS), nhưng bên trong, Lénine, qua tay em của mình là Staline, vì lúc đó Staline đã đặc trách về vấn đề các dân tộc, tìm cách ép buộc, đàn áp, giết hại những dân tộc chung quanh, bắt họ đi theo Liên sô. Bằng chứng rõ ràng là khi đế quốc Liên sô sụp đổ năm 1989, thì những dân tộc này nổi lên đòi độc lập.

Chính vì mang đầu óc quốc gia cực đoan, bành trướng, nên đã có những vụ tranh chấp Nga - Hoa ở biên giới vào những năm 60, tranh chấp giữa Việt Cộng và Trung cộng, rồi đi đến chiến tranh năm 1979, tranh chấp Việt Miên rồi cũng đi đến chiến tranh trước đó một năm, 1978.

Sau khi Liên sô sụp đổ, thì Việt cộng vội chạy đi thần phục Trung cộng, mở đầu bằng Hội nghị Thành đô tháng 3/1990, và không ngừng ký những hiệp ước dâng đất nhượng biển cho Trung cộng. Nhưng vì Trung cộng từ xưa đã mang mộng bành trướng đế quốc, nay lại được cấy vào vi trùng bất bình thường Mác Lê, nên mộng bành trướng càng ngày càng mạnh. Mặc dầu cả 2 bên, lúc nào cũng rêu rao "Bốn tốt và mười sáu chữ vàng"; nhưng đùng một cái, Trung cộng cho đặt giàn khoan, xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam.

Nhiều người vì tin tưởng ở những câu nói đầu môi, chót lưỡi của cộng sản, "Tình Huynh đệ tốt, Môi hở răng lạnh, Tình đồng chí cộng sản", đã ngỡ ngàng về sự việc Trung cộng đặt giàn khoan dầu ở quần đảo Hoàng sa, thuộc về chủ quyền Việt Nam. Thực ra nếu chúng ta xét lịch sử xa của cộng sản, thì chúng ta không có gì ngạc nhiên. Trung cộng và Việt cộng đã nhiều lần đánh nhau.

Bởi lẽ đó, chừng nào hai dân tộc Việt Nam và Trung hoa vẫn còn phải mang cái ách chế độ cộng sản, lấy lý thuyết Marx làm nền tảng cho chế độ, kêu gọi đấu tranh giai cấp, một lời kêu gọi chiến tranh triền miên, không những chiến tranh trong chính nội bộ, mà còn chiến tranh với nước ngoài, chừng đó hai dân tộc không thể nào sống hòa bình, hòa bình với chính mình, hòa bình với các nước chung quanh và với cộng đồng thế giới.

Người dân sống dưới chế độ độc tài phát xít hay độc tài cộng sản không những chỉ như một hạt mầm gieo trên một mảnh đất khô cằn, mà còn bị giới lãnh đạo dùng như những bia đỡ đạn cho tham vọng bành trướng và đế quốc của mình.

Vì vậy, ngày hôm nay, những chế độ độc đoán độc tài, không phát triển hay phát triển chậm hơn những chế độ dân chủ và đi ngược lại trào lưu tiến hóa của con người là như vậy.

Quả thực nhân loại đã trải qua 5 nền văn minh, từ trẩy hái qua du mục, quân chủ tới dân chủ ngày hôm nay, mỗi một nền văn minh tương xứng với một mô hình tổ chức nhân xã khác nhau, hay nói một cách rõ hơn, hiện đại hơn là cách tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, hoặc chế độ hay thể chế chính trị khác nhau, từ thể chế gia tộc, bộ lạc, tới quân chủ và dân chủ.

Nước Tàu và Việt Nam hiện nay nói riêng và các nước phương đông nói chung trong đó có cả các nước Trung Đông, những nước này đã có một nền văn minh rất sớm, hơn cả tây phương. Nhưng tiếc rằng chế độ quân chủ kéo dài quá lâu. Ngày hôm nay chế độ cộng sản ở Tàu và Việt Nam cũng chỉ là một chế độ quân chủ phong kiến trá hình. Chế độ quân chủ này trước khi tàn thì bùng lên ở phía phải tức chế độ phát xít, bùng lên ở phía tả, tức chế độ cộng sản, để rồi sẽ tắt luôn như một nhóm lửa trước khi tàn.

Tây phương, mặc dầu văn minh đến chậm hơn đông phương, nhưng đã biết từ bỏ sớm chế độ quân chủ để bước sang chế độ dân chủ và kinh tế thị trường và đã phát triển rất mạnh, vượt mặt đông phương.

Đối với những chế độ quân chủ, từ lạc hậu như ở các nước Trung Đông, cấm đoán ngay cả những người phụ nữ làm đủ mọi thứ nghề, ra đường phải bịt mặt, tới chế độ cộng sản, tước hết mọi quyền căn bản nhất của con người; người xưa có câu "Trễ còn hơn không", hãy từ bỏ thể chế chính trị quân chủ phong kiến, độc tài cộng sản, để bước sang chế độ dân chủ, tôn trọng những quyền căn bản của con người, trong đó có nam nữ bình quyền, có quyền tự do tư tưởng và ngôn luận, thì mới hy vọng theo kịp những nước văn minh. Gương Nam Hàn và Đài loan cho ta thấy rõ. Hai nước này đã từ bỏ chế độ độc tài vào thập niên 80, để bước sang chế độ dân chủ, thế mà ngày hôm nay cả 2 nước đã có thể sánh cùng với những nước văn minh khác trên thế giới.

Đất nước và dân tộc đang đứng trước hiểm họa diệt vong, trong thì đảng cộng sản mặc tình cấu kết với ngoại bang bán đất dâng biển, hèn với giặc, ác với dân, giết hết tinh anh, triệt mọi cơ hội phát triển của người dân, ngoài thì Tàu cộng lộng hành, ngang nhiên kéo dàn khoan đến vùng biển Việt Nam. Con đường duy nhất để chống ngoại xâm là bằng mọi cách phải thay đổi thể chế chính trị, từ độc tài cộng sản qua Dân chủ Tự do, vì có như thế, giới lãnh đạo mới quy tụ được sức mạnh toàn dân, vận động được các quốc gia và cộng đồng yêu chuộng Tự do và Hòa bình trên thế giới cô lập và bẻ gãy mọi mưu mô bá quyền của Tàu cộng. (1)

Paris ngày 07/06/2014



_________________________________________

(1) Xin đọc thêm bài Trung cộng tiêu biểu cho văn minh đông phương và những bài về thể chế chính trị và dân chủ trên http://Orange.fr/chuchinam/


Bình Luận

Thời Sự

Chuyên đề

 
http://danlambaovn.blogspot.com/search?max-results=50
Copyright © 2014 Dân Làm Báo