Gửi bạn ngày gặp lại
Vũ Đông Hà (danlambao) - Ngày ấy chúng ta tuổi mười lăm, mười sáu, đã choáng váng tâm hồn trong những ngày đầu "hòa bình" và "thống nhất" của đất nước. Các bạn ta đã tập tành bước vào nề nếp mới của đời sống xã hội chủ nghĩa, và trong cuộc sống được xếp đặt kỹ càng đó, văn chương cách mạng cũng đã đi vào đầu các bạn như muôn ngàn thứ khác.
Các bạn ta đã bỏ lại sau lưng những mượt mà quá khứ, những rung động ban đầu của thời mới lớn: “Làm sao định nghĩa được tình yêu. Có nghĩa gì đâu một buổi chiều...”; đã đánh rớt dọc đường những ngậm ngùi dĩ vãng “Đưa người ta không đưa sang sông. Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng...”; đã chia tay những lãng mạn về một thời chinh chiến mịt mù: “Xa quá rồi em người mỗi ngã. Bên này đất nước nhớ thương nhau...”. Thay vào đó, các bạn ta đã bừng bừng lên cơn sốt cách mạng với những giòng thơ “Khóc là: nhục, rên: hèn, van: yếu đuối. Và dại khờ là những lũ người câm...”
*
Thời gian trôi nhanh như dòng máu đỏ. Ánh hào quang xã hội mới cũng lịm tắt dần với trưởng thành và nhận thức thực tế đạp vào mặt, đâm vào tim. Quay lưng lại với con đường vinh quang được đảng ra công dàn dựng, chúng tôi cùng rẽ bước tìm vào những con hẻm rất thực của cuộc đời. Và chúng tôi đi.
Đi với khắc khoải của Trần Dần. “Đi không thấy phố. Không thấy nhà. Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ”. Đi với nỗi đau của Phùng Quán: “Người làm xiếc đi trên dây rất khó. Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn. Đi trọn đời trên con đường chân thật”. Chúng tôi đi. Đi với Trần Nam Hương để thấy: “Đã có một thời nỗi đau ta phải giấu. Ta đánh mất ta trong nửa con người. Bài thơ phải cắt đi phần thật nhất. Trang báo ta cầm chỉ đọc những niềm vui”.
Chúng tôi đã từ giã con đường ta rộng thênh thang tám thước của đảng vinh quang để tỏa ra khắp nẻo đường lầy lội, nhớp nhúa quê hương. Vì sao? Vì như Chế Lan Viên, chúng ta đã nhận thức được rằng con đường tám thước ấy chỉ “chưa cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ. Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn. Cầm lên nhấm nháp...” Chúng tôi nhấm nháp cho xong những yếu hèn của bản ngả. Và chúng tôi lại đi.
Đi để trở về chốn cũ. Để cười câm trước những ngậm ngùi của Tố Hữu cuối đời bị mời ra khỏi chiếu hoa của đảng, chợt biết rằng chốn cũ ngày về đã không còn nữa: “Không, chính xưa anh ở chốn này. Tre già còn đó miếu còn đây. Lòng bâng khuâng mải ôn ngày cũ. Chợt tiếng người đâu: “chú hỏi ai”. Đi. Vật vã đi. Để thấy những mất mát cuộc đời của bao thế hệ: “Anh hỏi nhà anh không phải đây. Rồi thôi quay đóng cửa then gài. Để ngoài sương gió chiều pha lạnh. Dưới khóm tre già khách đứng ngây...”
Con đường chúng tôi đi đó có kẻ trước người sau và gặp nhau trong cùng một nỗi ngậm ngùi. Ngậm ngùi của những kẻ đã góp vốn cuộc đời cho công ty buôn người, bán nước. Ngậm ngùi của những kẻ đã từng cả tin vào thợ thơ ngồi trong phòng kín múc máu đổ vào thơ: “Khóc là: nhục, rên: hèn, van: yếu đuối. Và dại khờ là những lũ người câm…” và rồi cũng một lần như Dương Thu Hương đem tủi nhục vào văn: “Một dân tộc dũng cảm biết bao trong chiến tranh và hèn mọn biết bao trong cuộc sống thời bình...”
*
Chúng ta lại gặp nhau để một lần đầu và cũng là lần cuối nghe bạn mở lời chia tay những ngậm ngùi cứ mãi loay hoay trong vòng tròn mang hình dáng thòng lọng treo dưới tấm bảng chỉ đường đi hoài không tới của đảng vinh quang. Chia tay với sợi dây treo cổ của người và của chính mình. Bạn chia tay với mảnh đất nghèo nàn sự thật, thừa mứa giả dối của văn chương; quay lưng với những mảnh chiếu trên, chiếu dưới và mâm cổ mang tên tác giả của những câu thơ đến buồn đi ỉa cũng không cho. Gặp nhau lại để bạn cười vào mặt cái gọi là bệ phóng văn chương thời đại mới... Một nụ cười mếu máo, muộn màng.