Jeffrey T. Kuhner * Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch - Tổng thống Obama đã sỉ nhục ký ức của gần 60.000 người Mỹ đã chết tại Việt Nam. Tuần qua, ông Obama gặp Chủ tịch Nước Việt Nam Trương Tấn Sang. Ông Sang rêu rao điều dối trá là Bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ và Thomas Jefferson đã khích lệ Hồ chí Minh, người lập ra nước cộng sản Việt Nam. Ông Obama đồng ý và tuyên bố công khai rằng cả hai nước đều cùng khâm phục Thomas Jefferson và những nguyên tắc lập quốc của chúng ta. Tóm lại, ông Obama đề cao một huyền thoại lịch sử kỳ quặc - huyền thoại mà giới thiên tả phản chiến Mỹ trong suốt thập niên 1960 đã nói như vẹt nhiều lần. Hồ là người đấu tranh cho nền dân chủ kiểu Jefferson, một người yêu nước chỉ muốn kết liễu ách cai trị của thực dân.
Điều ấy hoàn toàn không đúng. Hồ là nhà cách mạng Mác-xít trung kiên, người ngay từ thời trẻ đã tìm cách dựng lên nhà nước độc đảng Lê-nin-nít. Trong thập niên 1920, Hồ đến Liên Xô, tại đây ông theo học và được đào tạo tại Trường Lê nin khét tiếng ở Mạc Tư Khoa. Rồi ông lập ra phong trào cộng sản ở Việt Nam. Lực lượng của ông đã tìm cách đuổi người Pháp ra khỏi Đông Dương.
Tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ đã tạo ra cơn ác mộng cộng sản kiểu Stalin. Những người chống đối bị đày đến các trại lao động khổ sai. Những người bất đồng chính kiến bị xử bắn hay bị tống giam. Tự do báo chí chính thức bị cấm. Các nhóm tôn giáo bị sách nhiễu. Đất đai bị tập thể hóa. Nền kinh tế chỉ huy-và- kiểm soát xã hội chủ nghĩa ra đời. Các đảng chính trị không cộng sản bị cấm hoạt động. Chế độ cai trị tàn bạo của Hồ chẳng có gì giống với dân chủ kiểu Jefferson.
Những người khâm phục Hồ - trong đó có ông Obama và ông Sang - đều nhắc chuyện nhà lãnh đạo cộng sản này muốn cầu thân với Tổng thống Franklin D. Roosevelt. Qua thư từ, Hồ yêu cầu FDR ủng hộ việc lật đổ đế quốc Pháp. Hồ là người mưu mẹo và xảo trá: ông ta hiểu rằng FDR không chỉ ghét người Pháp mà còn ghét chủ nghĩa thực dân Châu Âu nói chung. Giống như những người Mác-xít khác trước (và sau) ông, Hồ biết rằng cách tốt nhất để vận động chính quyền Hoa Kỳ là giả vờ bày tỏ lòng ngưỡng mộ của ông dành cho những người Cha Lập Quốc Hoa Kỳ của chúng ta. Giống y như nhà độc tài Xô Viết Josef Stalin dùng viện trợ của Mỹ để đánh bại Đức quốc Xã để rồi cuối cùng quàng chặc ách nô lệ lên toàn cõi Đông Âu, Hồ mưu tính lừa FDR giúp thành lập một nhà nước công an trị cộng sản.
Nhiều người phản đối chiến tranh Việt Nam-Jane Fonda, Bill Ayers và Saul Alinsky- đã công khai ca ngợi Hồ. Họ đã thấy ông là nhà dân chủ chống thực dân y như Obama thấy ông ngày nay. Đây là một tuyên truyền thành công nhất trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.
Hồ chết vào năm 1969, nhưng di sản đẫm máu của ông vẫn tiếp tục tồn tại. Sau khi Mỹ thua, lực lượng Miền Bắc Việt Nam đã xâm chiến Miền Nam Việt Nam. Chế độ chiến thắng của Hà Nội tung ra chiến dịch giết người tập thể có tính chất diệt chủng và tiêu diệt sắc tộc. Hàng trăm ngàn người Miền Nam Việt Nam bị thảm sát. Gần một triệu thuyền nhân vượt biển. Người Hoa ở trong nước bị trục xuất. Bộ tộc người Hmong bị tiêu diệt. Sức mạnh Mỹ suy yếu đã đưa đến cuộc diệt chủng trong vùng. Khmer Đỏ khát máu lên nắm quyền ở nước láng giềng Cambodia, tàn sát ít nhất 2 triệu người Cambodia. Việt Nam xâm lăng Lào và dựng lên một chính quyền cộng sản bù nhìn.
Đối với những người cấp tiến, Việt Nam là cuộc chiến tranh xấu xa-dấu hiệu của nước Mỹ tàn ác, quân phiệt và đế quốc. Những cựu binh Mỹ trở về nước bị bêu xấu là "những kẻ giết trẻ thơ" và là những tội phạm tâm thần. Chính ngược lại mới đúng: Việt Nam là cuộc chiến tranh chính nghĩa và cao quý. Cuộc chiến Việt Nam là một phần trong cuộc đấu tranh rộng lớn hơn chống lại Liên Xô. Mạc Tư Khoa đã cung cấp cho Hồ vũ khí, huấn luyện, và viện trợ. Mục tiêu rõ ràng -và hiển nhiên: tạo ra một nước vệ tinh Xô Việt ở Đông Nam Á. Việt Nam vẫn còn là một nước chư hầu của Mạc Tư Khoa cho đến lúc kết thúc Chiến tranh Lạnh. Việt Nam chỉ độc lập trên danh nghĩa. Chúng ta đã hiện diện ở Việt Nam với một lý do đơn giản: để chống lại chủ nghĩa toàn trị cộng sản. Niềm khích lệ thật sự của Hồ không bao giờ là Jefferson mà chính là Karl Marx. "Bản Tuyên ngôn Cộng sản" tốt hơn nhiều Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Mỹ. Giống như những thiên đường không tưởng Mác-xít khác, kết cục là chết chóc và kinh tế sụp đổ trên phạm vi rất lớn.
Cho đến ngày nay, Việt Nam vẫn còn là một nước cộng sản suy kiệt. Nhiều công dân sống trong cảnh nghèo khổ. Đối lập chính trị bị trấn áp. Báo chí bị bịt miệng. Nhân quyền bị xóa bỏ. Nhà nước thống trị phần lớn nền kinh tế. Tham nhũng tràn lan. Tầng lớp cai trị cao nhất sống trong cảnh giàu sang và đặc quyền, còn đa số nhân dân trong cả nước phải vất vả mưu sinh. Đây không phải là nền dân chủ kiểu Jefferson; đúng ra đây là nhà nước hà khắc của lũ cướp.
Thay vì đối mặt với hiện thực này, ông Obama cố tình không muốn để ý đến nó. Thật vậy, ông nồng nhiệt chấp nhận huyền thoại về Hồ, qua đó ban tính hợp pháp cho chế độ đáng ghê tởm của Việt Nam. Ông Obama đã phản bội tất cả những người lính Hoa Kỳ đã không bao giờ trở về từ các rừng rậm Đông Nam Á. Ông cũng làm ô danh những người tù binh bị tra tấn-có người bị tra tấn hàng nhiều năm trời- tại Hỏa lò Hà Nội. Chỉ có một từ mô tả điều ông Obama đã làm: xấu hổ.
Nguồn: Washington Times 2/8/2013. Tựa đề của người dịch, nguyên tác tiếng Anh "Obama hails Ho Chi Minh"
Bản tiếng Việt: