Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) - Vào đầu thế kỷ 21, nền kinh tế Việt Nam giảm bớt tiến triển sau chương trình Đổi Mới. Mặc dù có những nguồn tài nguyên phong phú và lực lượng làm việc năng động, nền kinh tế Việt Nam vẫn không được phát triển tương xứng. Cuộc sống đa số dân vẫn khó khăn, tệ trạng xã hội càng gia tăng. Nguyên nhân là khả năng yếu kém của ĐCSVN, tệ trạng tham nhũng, và sự kết hợp không tương xứng giữa kinh tế thị trường và chế độ độc tài. Chính phủ cộng sản Việt Nam còn hèn với giặc ác với dân, tiếp tục đàn áp dân, đặt ra những luật lệ mơ hồ để giam giữ những người bất đồng chính kiến. Người Việt Hải Ngoại (NVHN) tích cực góp tay với người dân trong nước trong việc đem lại thể chế tự do dân chủ cho Việt Nam.
*
Năm 2000, Tàu cộng và Việt Nam chính thức tuyên bố bà con xa thua láng giềng gần với 16 chữ vàng và 4 điều tốt là phương châm chỉ đạo cho mối quan hệ hai quốc gia. Đây là khởi đầu cho một tiến trình ĐCSVN đưa Việt Nam vào cảnh lệ thuộc Tàu cộng về đủ mọi phương diện, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội.
Năm 2007, Việt Nam được gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới. Chương trình Đổi Mới kích động kinh tế và Việt Nam trải qua một tiến triển lớn lao trong những thập niên sau đó. Tuy nhiên, nền kinh tế dần dà chạy hết xí quách trong thập niên đầu của thế kỷ thứ 21. Mặc dù có tiến triển về kinh tế, mức tiến triển vẫn còn chậm chạp so với khả năng của một quốc gia sống động. Năm 2014, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Với nền kinh tế tiến triển chậm như rùa bò, chính phủ Việt Nam vô kế khả thi, không biết tính toán ra làm sao. Họ thừa biết là chế độ cộng sản trước sau gì cũng tiêu tan, nhưng bỏ thì thương vương thì tội, tạm thời thì cứ tiếp tục bắt cá hai tay. Nhưng vì râu ông nọ cắm cằm bà kia, nên toàn bộ hệ thống đâm ra dở dở ương ương, đầu gà đít vịt chẳng ra cái quái gì cả. Chính trị thì theo chủ nghĩa cộng sản Marx - Lenin độc đảng, kinh tế thì theo biến dạng của chủ nghĩa tư bản, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi. Một hệ thống như vậy thì không thể tồn tại được. Đó là vì để cho tư bản phát triển, phải có tự do buôn bán, tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do tôn giáo. Nhưng tự do ngôn luận và độc đảng là hai kẻ thù không đội trời chung. Vì tự do ngôn luận cho phép dân phát biểu ý kiến, chỉ trích chính quyền, mà độc đảng thì làm sao chịu bị chỉ trích?
Dân Việt Nam không phải là dân ngu dốt. Trái lại nữa là khác. Họ rất thông minh, cần cù, và có tinh thần bất khuất. Tướng Hoa Kỳ Westmoreland đã từng nói dân Việt Nam là thông minh tài giỏi nhất Á châu. Lý Quang Diệu, cựu Thủ tướng Singapore, ca ngợi dân Việt Nam là một trong những dân tộc có khả năng và đầy năng lực nhất ở Đông Nam Á. Nhưng dưới sự thống trị vô lương tâm của chính phủ, người dân thấp cổ bé miệng chỉ biết bấm bụng bấm gan, chấp nhận cuộc đời đen như mõm chó. Người thì khoanh tay bó gối, người thì ngậm bồ hòn làm ngọt, người thì bưng tai bít mắt trước những cảnh chướng tai gai mắt. Có người vì nhiều hoàn cảnh bó buộc, phải cố đấm ăn xôi, miễn cưỡng hợp tác với chính quyền. Nhiều người cũng đã cố gắng trình bày điều hơn lẽ thiệt với chính phủ. Nhưng những lời lẽ của giới trí thức như đàn gẩy tai trâu vì đa số thành viên chính phủ không đủ trình độ hiểu được những lời ngay lẽ phải. Với những người hiểu được thì những lời đó cũng như nước đổ đầu vịt vì họ chẳng thèm màng. Chung quy thì chính phủ giả câm giả điếc, nhiều khi lại còn vu oan giá họa những người có ý kiến xây dựng hoặc chỉ trích chính quyền là phản động và muốn lật đổ chính quyền. Lẽ dĩ nhiên cũng có những kẻ ủng hộ cộng sản, dù là bên trong hay bên ngoài, nhất là đảng viên cộng sản và những kẻ có lợi trong chế độ cộng sản như nhân viên chính quyền, công an, an ninh, cảnh sát, bồi bút, giới trí thức dỏm, v.v.
Vấn đề với ĐCSVN và công cụ của nó, chính phủ CHXHCNVN, là các lãnh tụ đảng hoặc chính quyền chẳng hiểu mô tê gì về ý nghĩa của dân chủ. Bề ngoài họ tuyên bố là tôn trọng dân chủ, nhưng trong thâm tâm, họ tin rằng dân chủ và chủ nghĩa cộng sản là bất cộng đái thiên. Trong thể chế dân chủ đa nguyên thực thụ, chủ nghĩa cộng sản vẫn có thể hiện hữu. ĐCSVN hiểu rõ chuyện này nhưng biết là nếu dân có sự lựa chọn thì chẳng ai chọn đảng cộng sản. Vì vậy họ phải dùng đến chính sách độc tài để sinh tồn. Tệ hơn nữa, ĐCSVN, hoặc chính phủ CHXHCNVN, lạm dụng quyền lực ép buộc quân đội, cảnh sát, và công an chỉ phục vụ họ, và thậm chí dùng các lực lượng này để đàn áp dân. Vì ĐCSVN chỉ có bốn triệu đảng viên trong khi toàn thể dân số là 90 triệu, chuyện ĐCSVN xưng là đại diện dân là một chuyện hoang tưởng.
Người Việt hải ngoại tuy ghét cay ghét đắng chế độ cộng sản và phải làm việc kéo cày trả nợ nhưng vẫn gửi tiền về giúp đỡ gia đình họ hàng, hoặc để giúp đỡ những người xấu xố, nghèo nàn tàn tật, hoặc nạn nhân của hạn hán thiên tai trong tinh thần một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ và lá lành đùm lá rách. Tiền kiều hối gửi về gãi đúng chỗ ngứa của chính phủ Việt Nam. Họ mừng rỡ ra nghị quyết 36, dỗ ngon dỗ ngọt kêu gọi người Việt hải ngoại trở về Việt Nam dưới danh nghĩa đoàn kết quốc gia. Nhưng nhiều người Việt hải ngoại đi guốc trong bụng người cộng sản, biết lời kêu gọi đó là mật ngọt chết ruồi nên không thèm về. Tuy nhiên, tổng số kiều hối cũng rất cao, lên đến 9 tỉ đô la trong năm 2011, 10 tỉ đô la trong năm 2012, và 11 tỉ đô la trong năm 2013, khoảng 8% tổng số thu nhập quốc nội. Số tiền này thực ra không phản ảnh đúng số tiền NVHN chống cộng gửi về Việt Nam. Sổ sách tài chánh thường không phân minh, ít khi nào mà ra môn ra khoai, nhất là có rất nhiều vụ chuyển tiền không khai báo, từ Việt Nam ra ngoại quốc và ngược lại. Dầu gì thì tiền NVHN gửi về cũng rất nhiều.
Với tiền đầu tư từ nhiều công ty quốc tế, tiền kiều hối sung túc, tài nguyên thiên nhiên dồi dào, và khối lao động trẻ trung nhiệt tình, Việt Nam lẽ ra phải là một quốc gia giàu có. Nhưng không hiểu sao dân Việt Nam vẫn cực khổ, sống trong tình trạng gạo châu củi quế mà tiền lương cố định, ba cọc ba đồng. Nhiều người không có được việc làm trong nước phải tìm cách tha phương lập nghiệp tại các xứ ngoài. Công nhân nam nữ được gửi làm việc tại Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, Mã Lai Á, và các nước khác ở Âu châu và Trung Đông. Bằng cách xuất cảng lao động, Việt Nam thu nhập được thêm tiền kiều hối do các công nhân gửi về cho gia đình. Tổng quát, công nhân làm việc xứ ngoài lấy bát mồ hôi đổi bát cơm, dãi nắng dầm sương nơi xứ lạ quê người. Đa số sống chân chỉ hạt bột, hà tằn hà tiện, chắt chiu từng đồng dành dụm tiền để gửi về gia đình. Ngoài những công nhân lao động, một số lớn thiếu nữ kiếm tiền bằng cách nhận lập gia đình với đàn ông từ Đài Loan, Nam Hàn. Nhiều người bị đối xử tàn tệ, mang tiếng là vợ nhưng bị coi như người giúp việc trong nhà. Nhiều cô gái đau lòng xót dạ, héo ruột héo gan phải xa gia đình vì miếng cơm manh áo đành đánh liều đưa chân làm nô lệ cho thiên hạ, như là một hình thức buôn hương bán phấn để sinh sống qua ngày. Không kém thảm thương, người dân trong nước cày sâu cuốc bẫm làm việc cực khổ nhưng vẫn nghèo rớt mồng tơi. Cả ngày chạy ngược chạy xuôi mà vẫn xấc bấc xang bang, bữa đói bữa no. Dân cố thắt lưng buộc bụng, hàng ngày chỉ biết thở vắn than dài, hy vọng ngày mai trời lại sáng. Chỉ có những tay con ông cháu cha hoặc các cán bộ cao cấp ăn tiền hối lộ mới có tiền rừng bạc bể, sống trong nhà cao cửa rộng, lên xe xuống ngựa, bát ngọc đũa ngà, cao lương mĩ vị, rủng rỉnh đô la, ném tiền qua cửa sổ. Trong khi những cán bộ cao cấp hoặc các đại gia thì giàu nứt vách đổ tường, biết bao nhiêu người dân tay làm hàm nhai, vất vả bán cốt lột xương. Một xã hội bắt kiến nuôi voi như vậy thì không thể tồn tại được.
Có nhiều lý do giải thích cho chuyện này. Thứ nhất là tệ trạng tham nhũng. Tham nhũng đã có gốc rễ từ xưa. Ở mức độ nhỏ, tham nhũng được ngụy trang dưới hình thức quà cáp biếu xén biểu hiện cho sự biết ơn hay kính trọng, có qua có lại. Nhưng càng lên cao, tham nhũng trở thành trắng trợn. Viên chức chính quyền thì quen ăn bén mùi, chức càng cao, hối lộ càng nhiều và tham nhũng càng được che chở cẩn thận. Các cán bộ cao cấp và ngay cả giới lãnh đạo ĐCSVN có của chìm của nổi đầy rẫy khắp nơi. Những hoạt động tham nhũng là một hệ thống phức tạp dây mơ rễ má, dính líu ̣mọi cấp. Do đó thanh trừng tham nhũng rất khó vì rút dây động rừng. Tình trạng thượng bất chính, hạ tắc loạn có ảnh hưởng thật sâu xa và rộng lớn, hút hết tiền bạc của dân mọi giới. Thứ nhì là sự đối nghịch giữa tổ chức chính trị và cơ cấu kinh tế. Chính trị cộng sản và kinh tế tư bản là đầu Ngô mình Sở, sẽ chỉ tạo ra quái thai mà không làm ra trò trống gì. Đó là vì chính trị cộng sản chủ trương kềm kẹp và bạo lực, trong khi kinh tế tư bản nuôi dưỡng tự do và cơ hội. Kết hợp cả hai chỉ có thể dẫn đến một hệ thống như một kẻ say chân nam đá chân xiêu; trước sau gì thì cũng té nhào chổng bốn vó lên trời.
Một thí dụ điển hình cho những tệ trạng đưa đến sự bế tắc kinh tế Việt Nam là vụ Vinashin. Vinashin được thành lập là một tập đoàn kinh doanh, chuyên về đóng tàu năm 2006, với mục tiêu vĩ đại là sẽ trở thành công ty đóng tàu lớn thứ tư trên thế giới vào năm 2018. Nhưng té ra Vinashin chỉ là thùng rỗng kêu to, có nhiều dự án kếch xù nhưng tất cả chỉ là đầu voi đuôi chuột. Mặc dù có nhà nước bảo trợ tài chánh, chỉ sau vài năm hoạt động, Vinashin đã nợ như chúa chổm, mắc nợ lên tới 4.4 tỉ đô la vào giữa năm 2010, nằm bên bờ vực phá sản. Biết bao nhiêu tiền đầu tư, vay mượn với lãi xuất rẻ, lên đến hàng tỉ đô la, đã không cánh mà bay. Trong một quốc gia có Tổng sản phẩm quốc nội khoảng một trăm tỉ đô la vào năm 2010, sự phá hủy 4 tỉ đô la trong vài năm quả là một thành tích siêu quần bạt tụy. Chỉ có những người có phép thần thông biến hóa mới làm được. Các phân tách về sự thất bại cho biết nguyên nhân gồm có quản lý sai lầm, không tự lượng sức mình, và khủng hoảng tài chánh quốc tế. Quản lý sai lầm thực ra chỉ là ngụy trang cho tham nhũng dưới hình thức vi phạm các nguyên tắc căn bản của luân lý kinh doanh. Vì thế dẫn đến chuyện vô trách nhiệm. Tập đoàn có hàng trăm công ty con, nhưng mạnh ai nấy làm, mỗi khi thiếu thốn thì giựt gấu vá vai hoặc mượn đầu heo nấu cháo. Sổ sách thì xập xí xập ngầu, khai gian lận, tính toán không rành mạch. Người kiểm tra sổ sách thì như cưỡi ngựa xem hoa, chỉ coi qua loa cho xong chuyện. Đến khi đổ vỡ thì không ai chịu trách nhiệm. Không tự lượng sức mình là kết quả của sự bất tương đồng giữa xã hội cộng sản chủ nghĩa và tư hữu. Vì không nhìn thấy được những nguyên lý kinh doanh tư bản, nên các quản lý thiếu trình độ phán xét sai lầm và đưa đến cảnh dắt trâu chui qua ống hoặc mèo con mà đòi bắt chuột cống. Ông Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị, người đứng mũi chịu sào, sau cùng thì giơ đầu chịu báng, bị toà án sơ thẩm kết án 20 năm tù. Vụ Vinashin cho thấy ĐCSVN không biết tự lượng sức mình và những nỗ lực của chính phủ Việt Nam mà không nhắm vào những nguyên do gốc rễ cũng sẽ chỉ như dã tràng xe cát.
Thực ra vụ Vinashin chỉ là một đỉnh đầu một tảng băng khổng lồ của sự suy xụp sắp đến trong nền kinh tế Việt Nam. Với tiền vô như nước, doanh nghiệp nhà nước hiện tại đóng góp khoảng 40% tổng số thu nhập quốc nội, nhưng tiền ra như sông đổ biển vì bán thua mua lỗ nên dẫn đến khủng hoảng trầm trọng trên lãnh vực tài chánh. Các ngân hàng có tỷ lệ vay mượn xấu cao hơn mức an toàn, tạo nên hiểm họa vỡ nợ. Các kế hoạch đầu tư thì vĩ đại với những dự án khổng lồ, làm những chuyện bắt cóc bỏ dĩa, chẳng có hy vọng thành công, hoặc làm những chuyện dại dột ngu xuẩn, bắt ngựa đàng đuôi. Vì trèo cao té đau, càng ăn to nói lớn bao nhiêu thì lúc xụp đổ cũng sẽ to tát tương xứng. Nền kinh tế Việt Nam có tiếng mà không có miếng. Mấy thập kỷ trước ai cũng tưởng Việt Nam là con cọp rời chuồng. Chính phủ CHXHCNVN hô hào thế giới đầu tư. Các công ty ngoại quốc ào ào nhảy vào vòng chiến, xây cất trung tâm nghiên cứu, nhà máy, xưởng chế tạo. Nhưng sau hai thập kỷ chẳng có phát triển gì kinh khủng cả. Công ty xí nghiệp phần lớn chỉ gồm có những nhà máy lắp ráp đầy những thợ lắp ráp. Ngày 5 tháng 10, 2014, Bộ trưởng bộ công thương Vũ Huy Hoàng huênh hoang rằng nền công nghiệp Việt Nam ‘đã sản xuất được ốc vít’ cho tổ hợp Samsung trong khi tổng giám đốc tổ hợp Samsung cho biết doanh nghiệp Việt Nam 'chỉ cung ứng được sản phẩm in ấn, bao bì.' Nhiều dự án xây cất nhà cửa bị bỏ dở nửa chừng vì những người đầu tư hết tiền, không vay được tiền, hoặc gặp khó khăn với luật lệ bất động sản. Nhiều cao ốc thương mại thì vắng như chùa bà Đanh. Con cọp tráng lệ hào nhoáng ngày nào bây giờ tiu nghỉu như mèo cúp tai, chui trở lại chuồng giấu mặt. Chính phủ CHXHCNVN tiếp tục lừa dối dân với những lời hứa hẹn rỗng tuếch, nhưng sự mất tin tưởng vào chính quyền tiếp tục gia tăng. Nền kinh tế Việt Nam chẳng bao lâu sẽ tan vỡ, lao xuống vực thẳm.
Những người cộng sản Việt Nam hay suy bụng ta ra bụng người. Họ là những người ăn không nói có, lại hay đâm bị thóc, thọc bị gạo. Trước đó họ đã cướp chính quyền và xâm lăng miền Nam Việt Nam bằng những chiêu giơ tay mặt giật tay trái, nên họ tưởng ai cũng vậy. Do đó mỗi khi dân chúng biểu tình là họ có tật giật mình, nghĩ rằng dân đang muốn lật đổ chính quyền. Để chống lại, tay cầm khoán, tay bẻ măng, họ cứ dùng luật lệ mơ hồ về an ninh nhà nước, cả vú lấp miệng em để đàn áp dân. Quên đi ý nghĩa tự do ngôn luận, họ bóp cổ bóp họng những người phản đối chính quyền. Mỗi khi dân đòi hỏi điều tra, họ lại hay ̣đùn đẩy trách nhiệm bắn binh sang hộ, viện lẽ này cớ nọ để kiếm kế hoãn binh. Chuyện gì cũng kéo dài, chờ đến hồi sau phân giải. Nhưng họ đâu biết là càng kéo dài, càng đàn áp, càng làm dân bất mãn, càng làm tích tụ sự căm phẫn, rồi cho đến mức nào đó thì bùng nổ, dân sẽ nổi dậy. Lúc đó thì quá trễ, chẳng còn hồi sau đâu để mà phân giải.
Họ đặt ra cả một rừng luật nhưng tiếc thay đa số đều là luật rừng. Chính phủ CHXHCNVN càng làm ra nhiều luật lệ, họ càng làm dân thù ghét họ. Với điều 79, 88, và 258 của bộ luật hình sự là bùa hộ mệnh, chính phủ CHXHCNVN kết tội những người bất đồng chính kiến, vơ đũa cả nắm bất cứ ai chỉ trích chính phủ là có ý định lật đổ chính phủ. Ngoài ra, tin là bị nội công ngoại kích, chính phủ đa nghi như Tào Tháo của CHXHCNVN vu khống những người Việt hải ngoại chống cộng là thọc gậy bánh xe. Chính phủ cộng sản lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử, tuyên truyền là những người chống cộng hải ngoại vẫn còn ấm a ấm ức hậm hà hậm hực chuyện thua trận ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng đó không phải là thua trận. Người Việt Nam không bao giờ thua người Việt Nam, cho dù là Bắc hay Nam. Mạ lỵ người Việt hải ngoại vẫn còn cay cú như cà cuống chết đến đít vẫn còn cay vì thua cộng sản Bắc Việt là mạ lỵ Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, những vị tướng của phe Nguyễn và Tây Sơn bị thua trận và chết trong cuộc nội chiến vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Chỉ vì nhà cầm quyền cộng sản miền Bắc dùng xe tăng đại bác Nga Tàu thừa cơ hội Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam để tấn công một cách hèn hạ nên một số người mới phải cắn răng nuốt hận bỏ nước ra đi. Đó là không kể số người rời bỏ Việt Nam trong những ngày cuối của cuộc chiến chỉ chiếm khoảng một phần ba mươi tổng số người Việt hải ngoại hiện tại. Ngoài ra, có quả thật là họ vẫn còn cay cú khi mà lớp người tị nạn thuộc chế độ VNCH cũ đã già cốc đế, đầu bạc răng long, và con cháu họ chẳng còn biết gì về cuộc chiến nữa? Phải có một lý do gì khác mới khiến họ tiếp tục tranh đấu cho nền dân chủ ở Việt Nam chứ? Phải chăng đó là vì họ vẫn còn có lòng yêu nước? Ngoài ra, giả sử miền Nam thua trận vào năm 1975 nhưng chưa biết mèo nào cắn mỉu nào vì cuộc chiến chống cộng chưa chấm dứt. Do đó cho rằng người Việt hải ngoại thua trận thì quả là hơi sớm.
Trong chiến dịch tấn công những người chống cộng trong nước và hải ngoại, ĐCSVN và chính phủ CHXHCNVN vẽ chân rắn, giặm lông lương ra hình ảnh một đất nước thanh bình và nền kinh tế phát triển. Với nghị quyết 36, chính phủ CHXHCNVN kêu gọi kiều bào hải ngoại gác bỏ hận thù quá khứ để trở về xây dựng đất nước. Nhiều người trong nước tin vào lời lẽ này, và trách kiều bào là không chịu về nước để xem đất nước đã thay đổi như thế nào. Buồn thay, quả thực là đất nước đã thay đổi. Nhưng thay vì thay đổi để tiến hóa, đất nước thay đổi để đi thụt lùi, thua đơn kém kép các quốc gia lân cận. Câu hỏi đơn giản là tại sao sau gần bốn mươi năm sau chiến tranh, Việt Nam vẫn là một nước nghèo ao tù nước đọng mặc dù có tài nguyên phong phú, ̣đất thuần dân hậu, và nguồn lao động trẻ trung to tát.
Nhiều người dân sống ở Việt Nam còn trách người Việt hải ngoại chống cộng là vạch áo cho người xem lưng, chỉ biết khua môi múa mỏ chửi chính quyền Việt Nam hoặc bêu xấu Hồ Chí Minh, đã chẳng làm nên trò trống gì cả, mà còn khiến cho Việt Nam mất uy tín với thế giới. Nhưng đó là những lời kết tội thiếu suy nghĩ. Trước hết, sự kính phục hay khinh bỉ một dân tộc không có dính líu gì đến phẩm cách hoặc tài năng lãnh tụ của dân tộc đó. Một dân tộc có được sự kính phục của thế giới không phải vì họ có lãnh tụ là hiền nhân quân tử hay là người anh hùng cái thế, mà là vì dân tộc đó can đảm, đạo đức, cần cù, tài giỏi, yêu chuộng hòa bình.
Hồ, giả sử lừa bịp được thế giới, chỉ đáng xách dép cho Mahatma Gandhi hoặc ông Nelson Mandela về tài năng và đức độ, nhưng thế giới đâu có ngưỡng mộ dân tộc Ấn độ vì ông Gandhi hoặc dân Nam phi vì ông Mandela? Ngược lại, thế giới mù tịt về các lãnh tụ Nhật Bản nhưng hầu hết ai cũng phục sát đất dân tộc Nhật vì sự cần cù, chăm chỉ, lương thiện, và ý chí đoàn kết của họ đã đưa Nhật lên hàng siêu cường kinh tế. Thế giới quên đi chuyện Nhật Bản đã tạo ra những chuyện tang tóc cho biết bao nhiêu dân Á châu trong Thế chiến thứ hai. Một dân tộc cũng không bị thế giới khinh bỉ hay coi thường vì sự tàn ác hiểm độc của một lãnh tụ dân tộc đó. Hitler là một trong những lãnh tụ tàn ác khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại, đã biến Âu châu thành địa ngục trần gian trong Thế chiến thứ hai. Nhưng thế giới đâu có khinh bỉ hay coi thường dân tộc Đức, nếu không muốn nói là còn nể nang họ qua những đóng góp về văn học, khoa học kỹ thuật, và kinh tế của họ. Tuy nhiên, có một điểm rõ như ban ngày. Nếu một dân tộc tôn thờ một lãnh tụ hiểm ác vô đạo đức thì chắc chắn thế giới sẽ coi thường và khinh bỉ dân tộc đó.
Người Việt hải ngoại (NVHN) mang lại vinh quang cho dân tộc Việt Nam trên nhiều khía cạnh. Thế giới ngả mũ nghiêng mình trước lòng can đảm kiên trì của thuyền nhân vượt biển, bàng hoàng về sự tàn bạo của lũ hải tặc, bùi ngùi nhỏ lệ cho những cái chết bi hùng tráng lệ của những trẻ em ngây thơ, của cha mẹ nhịn ăn nhịn uống cho con, của vợ chồng che chở lẫn nhau trong cơn giông tố mịt mù.
NVHN đến định cư nước ngoài sinh cơ lập nghiệp với hai bàn tay trắng, tự lực cánh sinh. Họ làm việc cực khổ, thức khuya dậy sớm, gây dựng sự nghiệp với mồ hôi nước mắt. Sống nơi xứ người, lạ nước lạ cái, họ vẫn đoàn kết, chung lưng đấu cật, tạo dựng những cộng đồng trù phú. Biết bao nhiêu người thành công rực rỡ, công thành danh toại, có sự nghiệp trọng vọng, nắm giữ địa vị lớn lao trong xã hội, thiết lập công ty, hoặc khuếch trương đủ mọi cơ sở buôn bán thành công. Tuy vẫn có người còn thua kém, nhưng đa số NVHN có đời sống sung túc, có công ăn việc làm, tậu nhà tậu cửa, sinh con đẻ cái. Họ vẫn uống nước nhớ nguồn, không quên quê hương Việt Nam, dạy dỗ con cái theo truyền thống Việt Nam. Con cái họ ngoan ngoãn, kính trên nhường dưới, gọi dạ bảo vâng, cố gắng học hành, dùi mài kinh sử, tạo nên những huyền thoại làm biết bao nhiêu người kính phục. NVHN lúc nào cũng duy trì di sản tổ quốc, tổ chức hội hè đình đám, kỷ niệm những ngày lễ cổ truyền. Họ tổ chức văn nghệ, chương trình ca nhạc văn hóa đượm màu sắc dân tộc. Những thành quả tốt đẹp, sự bảo tồn văn hóa, sự đóng góp vào xã hội của người Việt hải ngoại đã khiến người nước ngoài cảm phục dân tộc Việt Nam. Lúc trước, có một thiểu số NVHN lạm dụng danh nghĩa chống cộng để lừa gạt cộng đồng cho lợi lộc tài chánh. Tuy nhiên, đó chỉ là một số rất nhỏ và bây giờ những kẻ lừa đảo đó không còn đất dụng võ nữa vì NVHN đã khôn ngoan và hiểu được những mánh khóe này. Nói chung, những kẻ lưu manh này không đủ mạnh để thành những con sâu làm rầu nồi canh. Ngoài ra, cũng có những NVHN hoặc vì khờ dại, hoặc vì ngây thơ, hoặc vì có máu trục lợi, nghe lời dụ dỗ chính quyền mà trở về Việt Nam hợp tác với chính quyền cộng sản. Sau này, một số đụng chạm thực tế, hiểu được mưu mô Việt cộng, hoặc bị lừa đảo nên tỉnh ngộ, trốn về nước.
NVHN vẫn có thể ăn sung mặc sướng cả đời, an cư lạc nghiệp trên xứ tự do. Tại sao họ lại bận tâm đến Việt Nam? Thế hệ NVHN thứ nhất chống cộng tích cực đã dần dần thu nhỏ lại. Đa số đã qua đời hoặc đã da mồi tóc bạc đang hay sắp hưu trí vui thú điền viên. Bây giờ chỉ còn thế hệ một rưỡi, không có kinh nghiệm trực tiếp với Việt Nam và kiến thức về Việt Nam thường là qua lời cha mẹ ông bà. Thế hệ thứ hai thì lại càng không màng chuyện gì xảy đến Việt Nam. Tuy thế, NVHN vẫn còn quan tâm đến Việt Nam. Ở Hoa Kỳ, cơ sở thông tin mọc lên như nấm. Nhiều đài truyền hình và phát thanh của người Việt có những chương trình tin tức và thảo luận chỉ về Việt Nam. Báo chí, tạp chí, tin trên mạng, blogs của người Việt đều có những tiết mục dành riêng về Việt Nam. Sự quan tâm đó chứng tỏ tình yêu thương thiết tha cho đồng hương. NVHN bận rộn sinh nhai, nếu không có tình yêu đồng hương máu chảy ruột mềm, họ đã không thèm đoái hoài gì đến đất nước, mặc kệ những gì xảy ra ở Việt Nam, sống chết mặc bay. Vì chính phủ cộng sản Việt Nam bưng bít sự thật, áp dụng chính sách ngu dân để dễ cai trị, người Việt, trong nước và hải ngoại, muốn vạch ra những trò ám muội đó. Do đó, chỉ trích hay vạch ra những cái xấu xa cùa chính quyền chế độ cộng sản không phải là chuyện gà nhà bôi mặt đá nhau, mà là cho dân chúng biết sự thật và để phục hồi danh dự dân tộc.
Tình trạng nhân quyền tại Việt Nam là một thảm họa. Chính phủ bắt bớ những người bất đồng chính kiến dựa vào luật lệ mơ hồ. Họ khóa mồm khóa miệng dân, cấm dân không được phát biểu ý kiến bày tỏ sự bất mãn hoặc chống đối chính sách chính quyền. Công an ngăn cản dân chúng tham gia biểu tình, phùng mang trợn mắt hò hét hung hăng, chửi thề tục tĩu, lại còn khoa tay múa chân hà hiếp dân lành. Có dịp thì đấm đá những người dân chân yếu tay mềm, đánh dân bầm môi tím mặt. Họ bẻ hành bẻ tỏi vặn vẹo đủ điều, bắt bớ giam cầm những người hoạt động nhân quyền một cách hèn nhát, lại còn sai thủ hạ đầu trâu mặt ngựa bám đuôi theo dõi, rình như mèo rình chuột, lén lút đánh đập, sách nhiễu những người này một cách đê tiện.
Với những thành quả vi phạm nhân quyền như vậy, thế mà Việt Nam cũng xoay sở để trở thành một thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Vào ngày 12 tháng 11, năm 2013, Việt Nam, cùng với Tàu cộng, Nga, Cuba, và Saudi Arabia, được bầu là thành viên của Hội đồng Nhân quyền có 47 ghế của Liên Hiệp Quốc cho nhiệm kỳ ba năm 2014-2016. Nhiều nhóm Nhân quyền độc lập chỉ trích nặng nề cuộc bầu, cho rằng các thành viên mới bầu này là trong số những quốc gia vi phạm nhân quyền tệ hại nhất trên chính công dân của họ. Chính phủ CHXHCNVN thích thú tiểu nhân đắc chí tiếu hi hi với cuộc trúng cử. Điểm cười lăn cười bò là chính phủ CHXHCNVN lại mang vạ vào thân khi xin gia nhập vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc vì bây giờ ai ở Việt Nam cũng biết đến nhân quyền. Hơn nữa, là một thành viên của Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam phải hành động phù hợp với lời hứa trịnh trọng và cam kết tình nguyện của mình trong việc tôn trọng nhân quyền ở mức quốc gia và thế giới, và hợp tác với Hội đồng trong việc chia sẻ thông tin và thi hành những đề nghị được chấp thuận của nhóm công tác Duyệt xét Định kỳ Phổ quát.
Tuy nhiên, thay vì biết thân biết phận bây giờ là họ lẽ ra biết tôn trọng nhân quyền, ĐCSVN lại còn mặt trâng mày tráo đi ngược lại những lời cam kết của họ với thế giới. Vào ngày 10 tháng 12 năm 2013, các blogger tại Việt Nam chính thức ra mắt tổ chức họ, Mạng Lưới Blogger Việt Nam (MLBVN) tại Hà Nội với các cuộc họp tổ chức tại Hà Nội và Sài Gòn. Cùng ngày, bạo lực và tàn bạo bùng nổ tại Sài Gòn. Cảnh sát và công an bao vây nhà của blogger Nguyễn Hoàng Vi và tấn công cô và blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (hay còn gọi Mẹ Nấm) để ngăn cản họ tham dự cuộc họp với các blogger khác. Họ thậm chí còn dữ dội tấn công thượng cẳng tay, hạ cẳng chân đấm đá các blogger khác đến cứu các nạn nhân. Máu đổ vào ngày dân Việt Nam mừng ngày Nhân quyền tại Việt Nam. Chưa đầy một tháng sau khi trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, chính phủ CHXHCNVN đã chứng minh cho thế giới thái độ mục hạ vô nhân khinh thị tổ chức LHQ và coi thường nhân quyền của chính công dân họ. Hành động này là cái tát vào lời hứa trịnh trọng và cam kết tình nguyện của Việt Nam trong đơn xin gia nhập Hội đồng Nhân quyền LHQ.
Mặc cho thế giới nghĩ sao về Việt Nam, dân Việt biết rõ chính phủ họ. Họ đã chán ngấy với tuyên truyền và hư tin của chính phủ. Chính phủ CHXHCNVN có thể gạt và tung hỏa mù được thế giới, nhưng không thể gạt được dân. Phản đối chống chính phủ đã xảy ra biết bao nhiêu năm trời. Các nhà hoạt động dân chủ biểu hiện sự bất mãn của họ qua bỉểu tình, blogs chống chính quyền, thư ngỏ gởi cho lãnh đạo ĐCSVN, và các phương tiện truyền thông khác.
Trước những biểu tình phản đối và chỉ trích trên mạng, ĐCSVN và chính phủ CHXHCNVN cố gắng tìm cách trấn an dân chúng. Nhưng quanh đi quẩn lại cũng vẫn là những kết tội mơ hồ về những thế lực thù địch hoặc úp úp mở mở về những hoạt động chính quyền. Những viên chức chính quyền và các đại biểu quốc hội họp hành đã đời, đọc diễn văn tràng giang đại hải, trả lời báo chí dài dòng văn tự, nói vòng vo tam quốc, rốt cục rồi cũng khen lấy khen để đảng và chính phủ, và rêu rao những lời tuyên truyền chán như cơm nếp nát. Thỉnh thoảng chỉ trích nhau thì cũng như anh đui chê anh mù không có mắt. Chẳng có ai bênh vực cho người dân thực hành tự do ngôn luận qua biểu tình hoặc trên mạng. Những biểu tình, phản đối, chỉ trích trên mạng tuôn ra ào ào như thác lũ làm chính phủ CHXHCNVN tối tăm mặt mũi, nhìn quanh trông gà hoá quốc, tưởng ai cũng muốn lật đổ chính quyền, hoặc biết rõ là họ không muốn lật đổ chính quyền nhưng muốn đàn áp tiếng nói dân chủ nên bắt bớ cấm cản người dân.
Đối với ĐCSVN, truyền thông trên mạng là chuyện làm họ khó chịu bực bội vì nó là kỳ đà cản mũi cho cái gọi là tự do ngôn luận của họ. Những tố cáo tham nhũng và chia rẽ bè phái trong ĐCSVN đăng tải trên các trang mạng làm rúng động chính quyền cộng sản vì không có lửa làm sao có khói. Ngày 12 tháng 9 năm 2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra công văn 7169 lên án những trang mạng "đăng tải thông tin vu khống, bịa đặt, xuyên tạc, không đúng sự thật nhằm bôi đen bộ máy lãnh đạo của đất nước." Chưa từng bao giờ tự cổ chí kim trên lịch sử thế giới lại có một lãnh tụ quốc gia sợ tiếng nói người dân đến độ hớt ha hớt hải ra công văn kêu đích danh những trang mạng như vậy. Hành động có một không hai đó cho thấy rõ nỗi lo sợ của ĐCSVN trước phong trào dân chủ tự do và như thế nào. Làm sao mả một lãnh tụ chính phủ cao cấp có thể ngu như lợn ra một công văn ăn ốc nói mò, kết tội thiên hạ không có căn cứ cơ sở nào cả?
Với công văn 7169, chính phủ CHXHCNVN còn lộ rõ bản chất khinh người của họ, coi thường dân Việt quá mức, cho rằng dân Việt ngu dốt không đủ trí tuệ ̣để phân biệt vàng thau lẫn lộn giữa tin giả và tin thật. Mà họ cũng lòi ra là dân đâu còn tin tưởng gì ở thông tin báo chí của chính quyền nữa. Ngoài ra, chính phủ CHXHCNVN quả thật là ngu hết chỗ nói khi họ ra công văn 7169. Nếu họ nói sai, thì chính họ mới là người đăng tải thông tin vu khống, bịa đặt, xuyên tạc. Nếu họ nói đúng thì điểm khôi hài là cộng sản Việt Nam là vua về tuyên truyền xuyên tạc mà bây giờ lại ở trong cảnh gậy ông đập lưng ông, bị các "thế lực thù địch" dùng chính những chiêu tuyên truyền đập cho tơi bời hoa lá. Nếu các thế lực thù địch này lại chính là các phe phái trong ĐCSVN thì chuyện lại càng tiếu lâm hơn vì chính phủ CHXHCNVN chế giễu chế độ VNCH là bị lũng đoạn vì tài địch vận chia rẽ kẻ thù của họ. Bây giờ, đúng là cười người hôm trước hôm sau người cười. Trong cả hai trường hợp, chính phủ CHXHCNVN đều là trò cười cho thiên hạ. Cái oái oăm của vụ này là ĐCSVN bị ám ảnh bởi cảnh gậy ông đập lưng ông đã từ lâu. Vì họ chiếm đoạt chính quyền quá dễ dàng vào năm 1945 nên họ biết ai cũng có thể lật đổ họ một cách dễ dàng. Nhất là trong giai đoạn này, dân Việt đã quá chán ghét họ. Tức nước vỡ bờ, toàn dân chỉ chờ dịp là bùng nổ. Chỉ cần một nhóm hoạt động dân chủ trẻ đứng lên hô hào dân chúng biểu tình rầm rộ đòi hỏi cải tổ theo kiểu chống đối ở Thiên An môn năm 1989 bên Tàu cộng hoặc Cách mạng Dù do Joshua Wong ở Hồng Kông vào tháng 10 năm 2014 là ĐCSVN tức khắc tan tành mây khói, đi đời nhà ma. Bố bảo họ cũng không dám mang xe tăng và binh lính bắn giết dân chúng như chính quyền Tàu cộng.
Vụ tranh chấp biển Đông còn cho thấy tình trạng tệ mạt hơn. Khi bị phanh phui, cháy nhà ra mặt chuột, công hàm của Phạm Văn Đồng biểu hiện không những lối bán trời không văn tự mà còn tinh thần phản quốc của chính phủ cộng sản. Bây giờ bụng làm dạ chịu nên há miệng mắc quai, chính phủ CHXHCNVN cãi cố cãi chày là lúc đó Bắc Việt không có quyền sở hữu trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì những quần đảo đó là thuộc Việt Nam Cộng Hòa và do đó công hàm là vô giá trị. Nhưng như vậy lại càng lộ ra họ là những kẻ lừa thầy phản bạn, dùng thủ thuật ba que xỏ lá, biết là không có quyền sở hữu mà vẫn đồng ý với Tàu cộng. Họ đã mày trơ trán bóng lừa gạt ân nhân của họ lúc đó, thì làm sao thế giới tin tưởng những gì họ nói bây giờ nữa? Một sự không tin vạn sự bất tín. Nhất là những kẻ gian dối đó là thành phần lãnh đạo nhà nước. Làm sao mà các công ty kỹ nghệ quốc tế tin tưởng vào những người đi ngang về tắt và tiền hậu bất nhất như vậy để bỏ tiền đầu tư?
Đối với Việt Nam, Tàu cộng dùng chiến thuật đi với Phật mặc áo cà sa đi với ma mặc áo giấy. Họ đã từng là quan thầy của cộng sản Bắc Việt, nên biết rõ bộ mặt thật của đám lâu la. Tàu cộng dùng những lời lấp la lấp liếm, vừa đánh trống vừa la làng, đã lấy quần đảo Hoàng Sa năm 1974, rồi còn chiếm một phần quần đảo Trường Sa năm 1988, rồi đưa ra những bằng cớ lịch sử tam sao thất bổn và lý lẽ pháp luật nói nhăng nói cuội để tuyên bố chủ quyền trên những quần đảo này. Cộng sản Việt Nam quả thật là kẻ cắp gặp bà già và bà già này có một lực lượng quân đội hùng hậu nhất thế giới với ba triệu người. Tàu cộng càng ngày càng hung hăng, ỷ cá lớn nuốt cá bé, xua hàng ngàn tàu bè đánh cá tới biển Đông, lại đặt ra một thành phố có nhiệm vụ quản lý các đảo, rồi còn điều động quân đội để diễu võ dương oai và phô trương thanh thế. Ngày 1 tháng 5 năm 2014, Tàu cộng mang giàn khoan Hải dương 981 tới vùng gần quần đảo Hoàng Sa để thăm dò dầu khí. Dân Việt bừng bừng nổi giận, tổ chức biểu tình phản đối, nhưng chính phủ ngăn cản, chỉ cho phép cuộc biểu tình "quốc doanh" tại Bình dương với bạo động nhằm gây tiếng xấu cho phong trào dân chủ và dùng đó là cớ để đàn áp các cuộc biểu tình sau này.
Dân chúng Việt Nam căm phẫn, tổ chức biểu tình chống đối Tàu cộng. Các nhà trí thức viết thư điều trình tới chính phủ, vạch ra những gì nên làm. Chính phủ CHXHCNVN tiến thoái lưỡng nan, dở khóc dở cười, không biết làm gì, đầu óc rối như tơ vò. Một mặt không dám làm mất lòng Tàu cộng vì đã lỡ dung dăng dung dẻ với người bạn láng giềng này qua 16 chữ vàng và 4 tốt. Một mặt sợ mất thớ với dân, không muốn lộ ra sự hèn nhát của mình với dân Việt Nam và thế giới. Họ ngoài miệng tuyên bố cứng rắn, nhưng miệng hùm gan sứa, bên trong thì nhát như thỏ đế, chỉ muốn chủ trương tránh voi chẳng xấu mặt nào. Trước sự khiêu khích của Tàu cộng, các lãnh tụ Đảng sợ run như cầy sấy nên áp dụng chính sách im lặng là vàng. Chính phủ CHXHCNVN còn giở trò mị dân với những chiêu sáo mượn lông công như mua sắm vũ khí tối tân, tầu ngầm, ra vẻ như là đang chuẩn bị ̣chiến tranh với Tàu cộng. Trong khi chuyện đơn giản nhất là tuyên bố cứng rắn với Tàu cộng thì không làm, lại đi vẽ rồng nên giun. Tàu cộng, dưới áp lực thế giới, rút giàn khoan Hải dương 981 ra khỏi vùng vào ngày 15 tháng 7, năm 2014, vin vào cớ bão tố. Ngày 6 tháng 10 năm 2014, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng huênh hoang tuyên bố, "Trong giải quyết căng thẳng trên biển Đông thời gian qua, chúng ta đã giành được thắng lợi."
Chính phủ còn giở bộ mặt khôn nhà dại chợ, quay sang dọa nạt đàn áp dân chúng, lấy thịt đè người, cá mè đè cá chép cấm cản biểu tình chống đối. Đã thế họ lại còn phao tin vịt là những người biểu tình được trả tiền để đi biểu tình. Vào ngày 26 tháng 7 năm 2013, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao Nguyễn Thanh Sơn, trong một cuộc phỏng vấn, ngậm máu phun người những NVHN biểu tình chống đối cuộc thăm viếng Hoa Kỳ của chủ tịch Trương Tấn Sang là "có những người chỉ vì đồng tiền, có những người chỉ vì nhu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì có một chút thu nhập thêm." Lời kết tội không có bằng chứng của một viên chức ngoại giao này cho thấy phẩm cách ngược ngạo của chính phủ CHXHCNVN. Là những người chỉ biết chỉ tay năm ngón và quen với sự tuân lệnh cấp trên sai đâu chạy đó, những người cộng sản không thể hiểu được làm sao người ta lại có thể tự ý biểu tình phát biểu ý kiến. Thế mà họ vẫn tôn thờ lời lẽ rỗng tuếch của Hồ trong bản tuyên ngôn độc lập về quyền tự do và câu hắn nói, "Không có gì quý hơn độc lập tự do." Quả là thầy nào tớ ấy, đám lãnh đạo ĐCSVN hiện thời cha truyền con nối noi gương Hồ Chí Minh nên dùng đủ mọi mưu ma chước quỷ để lừa đảo dân lành.
Vào tháng 10 năm 2012, ĐCSVN có cơ hội đái công chuộc tội trong Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, nhưng giới lãnh đạo đã bỏ lỡ cơ hội này. Ban chấp hành trung ương đảng công nhận có nhiều thất bại về kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, hành chánh và tham nhũng, nhưng lại có thái độ vô thưởng vô phạt, quyết định "không kỷ luật Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị." Chủ tịch Trương Tấn Sang sau này gọi người đó là "đồng chí X." Nhận thức được những thất bại mà không trừng phạt những kẻ có trách nhiệm gây ra chúng là một hành động đạo đức giả ở mức độ cao nhất, vi phạm trắng trợn nguyên tắc pháp bất vị thân, nghĩa bất dung tình. Vì họ cùng trong một đảng, hành động đó còn cho thấy đám lãnh đạo đảng một đồng một cốt, bảo vệ và bôi son trát phấn lẫn nhau, cùng bảo nhau cả bè đè cây nứa, rốt cục chỉ có dân là bị thiệt thòi. Ngoài ra, trong khi toàn dân ai cũng biết Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là "đồng chí X," kiểu ĐCSVN đối xử dân thiếu thành thật với ngôn ngữ mơ hồ chỉ càng làm cho dân khinh thường họ. Vì nếu họ là cây ngay không sợ chết đứng, sao họ không nói toạc móng heo cho rồi? Không lẽ thanh danh của Thủ tướng quan trọng hơn quyền người dân được biết?
Ngày 12 tháng 6 năm 2013, Quốc hội Việt Nam công bố kết quả cuộc bỏ phiếu tín nhiệm 47 lãnh đạo chính phủ cao cấp, kể cả chủ tịch Trương Tấn Sang và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Điểm đáng cười ngặt cười nghẽo cho màn kịch này là phiếu tín nhiệm chỉ có ba lựa chọn: tín nhiệm cao, tín nhiệm, và tín nhiệ̣m thấp. Cuộc bỏ phiếu như là không có lựa chọn gì cả vì không có lựa chọn không tín nhiệm. Vậy mà các bản tin trên báo chí muối mặt đăng tải kết quả cuộc bỏ phiếu với nhan đề: "Không có viên chức cao cấp nào có phiếu không tín nhiệm." Chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng còn hí hửng như Ngô được vàng tuyên bố, "Có thể nói nhìn chung cách đánh giá của các đại biểu khá khách quan." ĐCSVN quả thật là khinh người vắt nóc dân Việt Nam với màn kịch bỏ phiếu tín nhiệm này.
Vào ngày 28 tháng 11, năm 2013, Quốc hội Việt Nam bỏ phiếu tán thành sửa đổi cho hiến pháp năm 1992 với tỉ lệ kỷ lục gần 98%. Hiến pháp mới sửa đổi, có hiệu lực ngày 1 tháng 1, năm 2014, bị chỉ trích là một bước thụt lùi về chính trị và kinh tế. Các sửa đổi tái xác nhận quyền lực tối cao của Đảng cộng sản mô tả trong Điều 4, bắt quân đội phải thề non hẹn biển với đảng, cho phép tịch thu đất đai vì "quyền lợi" quốc gia, và duy trì vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế. Vì đa số thành viên của Quốc hội cũng là đảng viên của ĐCSVN, kết quả cuộc bỏ phiếu không hoàn toàn bất ngờ. Chuyện đó còn cho thấy Quốc hội không đại diện dân mà chỉ là con rối của ĐCSVN đang cai trị.
Chính quyền CHXHCNVN có một mặc cảm lo sợ kỳ lạ. Những hoạt động dân chủ đã khiến các lãnh tụ ĐCSVN ăn không ngon, ngủ không yên. Các lãnh tụ ĐCSVN và viên chức chính phủ lúc nào cũng lo ngay ngáy phập phồng là bị dân mất tín nhiệm, sợ bị nói xấu. Nhưng nếu họ là người quang minh chính trực thì làm sao bị mất tín nhiệm hay bị nói xấu được? Thay vì cải tà quy chánh, sửa lại lỗi lầm để lấy công chuộc tội, họ lại cứ như đười ươi giữ ống khư khư theo cái chủ nghĩa sai lầm và ráng giữ cái sĩ diện hão huyền. Họ hứa hẹn dân đủ điều tốt đẹp, trấn an là mọi việc đều được đảng lo. Nhưng đó chỉ là đầu môi chót lưỡi vì giới lãnh đạo toàn là những người tài thô trí thiển, văn dốt vũ dát, đầu óc bã đậu, lại hay nói thánh nói tướng. Họ không biết lo việc nước và không học hỏi gì cả, nói như rồng leo, làm như mèo mửa. Họ còn có máu du côn du kề chỉ biết ăn hiếp dân nghèo, hèn nhát với Tàu cộng, ̣đối với quan chức Tàu cộng thì nhũn như chi chi, đi ra nước ngoài thì ngớ nga ngớ ngẩn như gà mở cửa mả, ấm ớ hội tề, ăn nói chẳng ra thể thống gì bạ đâu nói đấy.
Chính quyền đồi trụy. Các cơ quan chính quyền bóc lột, ăn cướp tài nguyên đất nước, trá hình bằng những chương trình xây cất hoặc khai thác quặng mỏ vĩ đại. Chúng còn đặt ra những chương trình cướp đoạt đất đai nhà cửa dân với mức bồi hoàn rẻ mạt, mục đích là moi ruột moi gan dân khiến dân khố rách áo ôm, màn trời chiếu đất. Dân oan nghèo túng, ăn bát mẻ, nằm chiếu manh. Dân oan ta thán, kêu trời như bọng, kiện cáo chính phủ ngày này qua ngày khác mà chẳng có công hiệu gì. Nhiều người lại còn bị chính quyền địa phương hà hiếp, trở thành thân tàn ma dại, con cái không được chăm sóc. Nhiều viên chức cao cấp chính phủ là những kẻ tham quan ô lại chỉ biết vinh thân phì gia, bất tài vô tướng, ăn chẳng nên đọi, nói chẳng nên lời, bằng cấp giả hiệu buôn danh bán tiếng, bìm bìm lại muốn leo nhà gạch. Nhân viên chính quyền thì sáng tai họ, điếc tai cày, làm việc lè phè buổi đực buổi cái lại cà rịch cà tang. Quốc hội chỉ là con rối của ĐCSVN. Cuộc bỏ phiếu tán thành các sửa đổi hiến pháp tháng 11 năm 2013 là bằng chứng hùng hồn cho hành vi này. Đại diện dân thì đa số là lũ hèn nhát, ăn càn nói bậy, lên diễn đàn thì múa may quay cuồng, tuyên bố như những kẻ ăn đàng sóng, nói đàng gió. Lắm kẻ chỉ tham danh trục lợi, a dua nịnh bợ như anh lùn xem hội. Công an cảnh sát thì tham nhũng, hung ác, giá áo túi cơm, ăn bơ làm biếng chỉ có tài hút máu hút mủ dân lành.
Xã hội suy đồi, đầy rẫy tệ đoan đồi phong bại tục, trộm cướp như rươi, trai gái hư thân mất nết, lêu lổng như mèo mả gà đồng. Con người thì ích kỷ, ăn cắp, dối trá, lừa đảo. Giáo dục thì yếu kém, hữu danh vô thực, học sinh chỉ biết học như vẹt, ê a lý thuyết Mác Lê nin, học trước quên sau. Các em bị dạy dỗ tôn thờ Hồ Chí Minh mặc dù hắn là kẻ thù của tổ quốc. Sinh viên ra trường không có việc làm, phí phạm công trình dầy công đèn sách, nấu sử sôi kinh. Tuy thanh thiếu niên Việt Nam thông minh và chăm chỉ, chính sách giáo dục tẩy não của chính phủ chỉ làm tổn hại đầu óc của những nhân tài tương lai của đất nước.
Với cấp lãnh đạo tham nhũng và bất tài, ĐCSVN và chính phủ CHXHCNVN không tài nào mà lèo lái con thuyền Việt Nam trên con đường đúng đi tới kinh tế trù phú và xã hội ổn định.