Tùy Nghi Tiến (Danlambao) dịch - Liệu sự đối tác của Luân Đôn với Bắc Kinh, vượt khỏi phạm vi kinh tế để lấn sang các vấn đề quốc tế, có gây tổn thất cho các quốc gia Tây phương không?
Chủ tịch Trung cộng Tập Cận Bình kết thúc chuyến công du Anh quốc vào hôm thứ Sáu bằng cuộc quá cảnh ở Manchester. Ông ta có khoảng thời gian hữu ích ở Luân Đôn. Anh và Trung cộng ký kết các thỏa thuận giao dịch: nhà máy nguyên tử năng, các công ty Trung quốc sẽ sở hữu phần ba nhà máy nguyên tử năng Hinkly Point C ở Anh; các tàu khách, hãng đóng tàu Carnival sẽ bán các chiếc tàu trị giá khoảng 4 tỷ cho Trung quốc; và các động cơ phản lực, hãng Rolls Royce thắng được các hợp đồng trị giá 2,2 tỷ Mỹ kim để thiết chế các động cơ phản lực mới cho Hoa lục. Tổng cộng, Tàu và Anh ký kết các thỏa thuận trị giá 40 tỷ Mỹ kim.
Tầm mức các thỏa thuận nêu trên không hề bất bình thường. Dù sao đi nữa, khi họ Tập tới Hoa Kỳ, các công ty Trung quốc hứa mua các phi cơ trị giá 38 tỷ Mỹ kim trong thỏa thuận đơn với hãng Boeing. Xét từ lập trường chính trị, điều đáng quan tâm hơn nằm ở lời hứa của Anh quốc là sẽ trở thành đối tác cấp cao nhất của Tàu cộng trong khối các nước Tây phương.
Lập lại những gì hình như đã trở thành câu kinh nhật tụng của chính phủ Anh, Thủ tướng David Cameron tuyên bố: “Tôi chắc chắn rằng Anh là đối tác tốt đẹp nhất của Trung quốc ở Tây phương”.
Tuy nhiên, họ Tập lý luận có khác hơn chút đỉnh bằng cách kêu gọi Anh quốc hãy “hoàn thành nguyện vọng trở thành nước cổ xuý mạnh nhất cho Trung quốc ở Tây phương”. Có sự khác biệt lớn giữa “nước đối tác” và “nước cổ xúy”. Ba từ ngữ sau ám chỉ vai trò tích cực hơn nhiều của Luân Đôn trong nỗ lực vận động các quốc gia Tây phương và thậm chí cả Mỹ hãy nhìn nhận cội nguồn phát triển của Trung cộng là chính đáng và đúng đắn.
Trên mặt trận kinh tế, điều trên có nghĩa là Luân Đôn sẽ hoàn tất sớm hơn các lời hứa rằng họ sẽ giúp thúc đẩy các cuộc đàm phán về Hiệp định Tự do Mậu dịch Trung-Âu (Free Trade Agreement – FTA), thậm chí dù các thành viên khác trong Liên hiệp Âu châu vẫn còn ngần ngại. Bản thông cáo chung được phổ biến trong chuyến công du của họ Tập tiết lộ: “Cả hai bên đều ủng hộ sự kết thúc sớm sủa Hiệp định Đầu tư đầy tham vọng và toàn diện Trung-Âu (Investment Agreement – IA); và lời kêu gọi nhanh chóng phát động cuộc nghiên cứu liên hợp về tính khả thi của Hiệp định Tự do Mậu dịch Trung-Âu.
Tuy nhiên, ý tưởng Anh quốc là “nước cổ xúy mạnh mẽ cho Tàu cộng” có thể vượt khỏi phạm vi kinh tế. Trong bản tuyên bố chung, hai bên cam kết tạo dựng “sự đối tác chiến lược tổng hợp toàn cầu”. Bản thông cáo cho biết chuyến công du của họ Tập “mở ra kỷ nguyên hoàng kim cho mối bang giao Trung-Anh với đặc điểm là lâu bền, bao hàm và hợp tác đôi bên cùng hưởng lợi”.
Xét về tính hiệu quả, sự đối tác Trung-Anh được miêu tả bằng một ngôn ngữ trích thẳng từ cuốn cẩm nang chính sách ngoại giao của Trung cộng, đó là: “Đôi bên đều củng cố thêm sự tín nhiệm chính trị dựa trên phẩm chất và lòng tương kính, và trong tinh thần đó công nhận tầm quan trọng mà mỗi bên gắn kết với hệ thống chính trị riêng, với lộ trình phát triển, với các lợi ích cốt lõi và với các vấn trọng đại khác”. Chấp nhận công thức “lòng kính trọng lẫn nhau” của Trung cộng vô hình trung đồng nghĩa với việc Anh quốc phải công nhận các lợi ích cốt lõi của Trung cộng, kể cả yêu sách chủ quyền của Trung cộng ở biển Hoa Nam tức Biển Đông của Việt Nam, trong khi hạn chế tối đa việc “lên lớp” về các vấn đề nhân quyền.
Trên mặt trận nhân quyền, Luân Đôn vốn đã khởi sự hành động. Theo tin tức báo chí, chính phủ Anh bắt giữ và lục soát tư gia của ba người biểu tình phản đối các sự vi phạm nhân quyền của Trung cộng, tổ chức gần đoàn công xa của họ Tập. Một là người sống sót sau biến cố Thiên An Môn và hai người kia là người Tây Tạng. Một trong ba người biểu tình phản đối bị bắt giữ cho tờ The Guardian biết rằng: “Sự đàn áp này giống y như sự đàn áp khi mà tôi còn ở Trung quốc”.
Trên mặt trận ngoại giao, Luân Đôn và Bắc Kinh tiến vài bước ngập ngừng trong nỗ lực khuếch trương sự đối tác trong các vấn đề an ninh. Tàu cộng và Anh quốc đồng ý “thiết lập cuộc đối thoại an ninh cấp cao nhằm tăng cường các cuộc trao đổi và hợp tác về các vấn đề như không phát triển các vũ khí nguyên tử, hoạt động hình sự có tổ chức, hoạt động hình sự mạng và di cư bất hợp pháp”. Hai điểm khác trong bản thông cáo chung cho biết hai bên đồng ý “tăng cường hợp tác giải quyết các vụ tranh chấp cấp quốc tế và cấp khu vực bằng các biện pháp hòa bình” và “gia tăng hợp tác đa phương nhằm giúp giải quyết xung đột bằng các phương thức ngoại giao và chính trị ngõ hầu đạt được tình trạng ổn định”.
Thủ tướng David Cameron tuyên bố tại cuộc họp báo chung với họ Tập: “Quan hệ chúng tôi vượt khỏi phạm vi mậu dịch và đầu tư. Trung quốc và Anh quốc đều là nước lớn trên thế giới với viễn cảnh toàn cầu”.
Sự thay đổi trong chính sách ngoại giao của Luân Đôn với Trung cộng xảy ra thậm chí dù nước đồng minh truyền thống là Hoa Kỳ ngày càng lo ngại về các hành động của Bắc Kinh trên không gian mạng và ở khu vực Á châu-Thái Bình Dương. Trong bối cảnh này, Anh quốc trong vai trò “nước cổ xúy cho Trung cộng” đặt lợi ích của mình vào tình trạng mâu thuẫn với lợi ích của hầu hết các nước Tây phương và có thể làm suy yếu các nỗ lực ngoại giao của nhiều quốc gia thuộc Liên hiệp Âu châu và Hoa Kỳ. Như Giáo sư Chính trị và Quốc tế Sự vụ tại trường Đại học Princeton, ông Aaron Friedberg cho tờ tuần báo Times biết rằng: “Khi Trung cộng hành xử tồi tệ trên một số lãnh vực như: không gian mạng, đàn áp người bất đồng chính kiến, xiết chặt kiểm soát sinh hoạt internet, thì chúng ta sẽ ít có cơ hội hơn nhiều để thuyết phục họ rằng họ cần phải điều hòa các chính sách, nếu các quốc gia như Anh lại đứng về bên họ”.
Ngoại trưởng Anh, ông Philip Hammond bác bỏ ý kiến rằng Anh quốc sẽ nhượng bộ các lợi ích quốc gia để theo đuổi sự đầu tư của Trung cộng. Trong cuộc phỏng vấn với đài BBC, ông Hammond cho biết: “An ninh quốc gia phụ thuộc vào an ninh kinh tế”.
Trong khi đó, ông Cameron tự biện minh trong cuộc họp báo chung với họ Tập rằng: “giao dịch kinh tế, kinh doanh và các sự đối tác khác của chúng ta càng mạnh mẽ hơn và mối bang giao của chúng ta càng mạnh mẽ hơn, thì chúng ta càng có thể có những cuộc thảo luận cần thiết và thẳng thắn hơn về những vấn đề khác”, chẳng hạn như vấn đề nhân quyền.
Tuy nhiên, câu hỏi lý thú hơn là liệu Luân Đôn sẽ đề cập tới không chỉ các chính sách quốc nội Trung quốc mà còn cả chính sách an ninh và ngoại giao của Bắc Kinh bằng cách nào, đặc biệt là trong các lãnh vực mà Hoa Kỳ đang cực lực chỉ trích. Liệu Luân Đôn trong tư cách là “đối tác tốt nhất của Trung cộng trong khối Tây phương” có cản trở các nước khác trong khối Thất Cường G7 bày tỏ nỗi lo ngại về hành động bá đạo của Trung cộng ở biển Hoa Đông và Hoa Nam tức biển Đông của Việt Nam không? Nói cách khác, liệu Anh có bắt đầu thủ vai một kẻ phá bĩnh phù Tàu cộng, tương tự như những gì Cambodia thường làm trong các hội nghị của khối ASEAN trong mấy năm gần đây không?
Trong khi đó, mặt thú vị của hiệu ứng phụ trong chính sách ngoại giao mới giữa Anh với Trung cộng là Bắc Kinh hình như đã nâng cấp sự đánh giá về tầm quan trọng toàn cầu của Luân Đôn. Trong năm 2013, khi mối bang giao Trung cộng-Anh quốc còn lung lay, thì tờ Global Times của Trung cộng đã bác bỏ vị thế cường quốc của Anh và cho rằng thời của Anh đã qua: “Anh không còn là một cường quốc trong nhãn quan của Trung quốc. Họ chỉ là một quốc gia Âu châu già nua, chỉ để du lịch và học tập”. Bây giờ Bắc Kinh lại kỳ vọng Luân Đôn nhận lãnh vai trò đại diện cho nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và nâng cấp Anh lên thành một “cường” quốc “với ảnh hưởng quan trọng.”
Rốt cuộc, việc thuyết phục “một quốc gia Âu châu già nua” làm nước cổ xúy cho mình thì có lợi lộc gì trên bình diện thế giới?
24/10/15