Trung Cộng sửa đổi địa lý tạo ra hỗn loạn Biển Đông
Quần đảo Hoàng Sa tương đối lớn về mặt địa lý, có một trong những vị trí chiến lược hàng đầu của vùng biển Thái Bình Dương, tài nguyên phong phú, mỏ Phốt-Phát lộ thiên, mỏ dầu khí dưới lòng biển, ngư trường vô tận, khai thác kinh tế vô hạng, khí hậu trong lành, sinh cư canh tác thuận tiện.
Năm 1918 người Pháp đã khai thác Phốt Phát, sau đó người Nhật Bản thành lập Công ty Lassa tiếp tục khai thác Phốt Phát, xây dựng nhà kho trên đảo, bến tàu, phi trường. Sau Đệ nhị thế chiến, năm 1955 Việt Nam Cộng Hòa chính thức quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với 200 hải lý, đặc quyền kinh tế đến tận hải phận quốc tế theo quy định.
Đặc biệt quần đảo Trường Sa đất canh tác không nhiều. Tuy vậy, thiên nhiên ưu đãi ban bố cho Việt Nam hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo đồ hình chiến lược Biển Đông, nó có một tác dung bảo vệ an ninh Thái Bình Dương, nếu hai quần đảo này bị Trung Cộng cướp mất xem như có một ngày tất cả những quốc gia trong vùng biển Thái Bình Dương không còn giá trị đối với thế giới.
Những triều đại trước đã nhận thức tầm quan trọng của công nghệ hàng hải
Trong công nghệ hàng hải của người Việt cổ xưa đã có nhiều khám phá rất lớn, vì nhu cầu sinh kế tiến ra khơi Biển Đông tìm ngư trường, đặc biệt từ thế kỷ 17-18, các triều đại Lê-Trần đã tổ chức khai thác quần đảo. Đến đầu thế kỷ 19, nhà Nguyễn chính thức xác lập chủ quyền Biển Đông xung quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khoảng cách địa lý gần gũi nhất 180 hải lý, còn 20 hải lý đến hải phận quốc tế, nếu tính từ đảo Hải Nam của Tàu đến Hoàng Sa 230 hải lý. Từ đó, người Việt Nam ý thức chủ quyền vùng biển quốc gia của mình, và ngư dân chọn ngư trường Hoàng Sa và Trường Sa làm truyền thống đời ngư phủ.
Bản đồ Biển Đông do người Hà Lan vẽ vào năm 1754 ghi nhận quần đảo Hoàng Sa dưới tên De Paracelles. (Trong giới hạn quần đảo De Paracelles, có 2 nhóm đảo, nhóm đảo phía nam tách rời (không được ghi chú) có hình dạng và vị trí tương đối giống với nhóm đảo Vạn lý Trường Sa của Đại Nam nhất thống toàn đồ). Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Trước năm 1974, Việt Nam Cộng Hòa tiếp nối thực hiện chủ quyền và kiểm soát hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Từ sau trận Hải chiến Hoàng Sa 1974 đến nay, Tàu cộng kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa đồng thời tuyên bố đây là lãnh thổ của họ. Chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa vẫn đang tiếp tục tranh chấp giữa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Quần đảo Hoàng Sa có khoảng cách gần gũi hơn với đất liền Việt Nam 180 hải lý, tuy nhiên rất xa từ ngoại biên đảo Hải Nam của Trung Quốc đến Hoàng Sa cách khoảng 230 hải lý. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Trung Cộng xâm chiếm Hoàng Sa và Trường Sa
Trong những năm đầu thế kỷ 20, Trung cộng xâm phạm Biển Đông, sau đó họ tự xem các quốc gia láng giềng trong vùng Biển Đông như chư hầu, cho rằng biển nội địa của Trung Quốc không cần tranh chấp lãnh hải. Trên lý thuyết địa lý chính trị, các quần đảo biển Đông thuộc những quốc gia xung quanh có một giá trị chiến lược sống còn của mỗi dân tộc, vì vậy trong thời kỳ thuộc địa người Pháp quan tâm tăng trưởng phòng thủ. Trước đó, lần đầu tiên vào năm 1930, hải quân Pháp tuyên bố sự hiện diện của quân Pháp kiểm soát quần đảo Hoàng Sa và năm 1931 công bố chủ quyền lãnh thổ quần đảo Trường Sa và cho tàu chiến tuần tra Biển Đông. Ngày 7-13 tháng 4 năm 1933, quân Pháp xây dựng hệ thống phòng thủ và đồn trú trên chín rạn san hô Nam Tử Đảo, Bắc Tử Đảo, Đôn Khiêm Sa Châu, Nam Uy Đảo, Mã Hoan Đảo, Phí Tín Đảo, An Ba Sa Châu trong quần đảo Trường Sa. Mặc dù vậy quân đội Pháp vẫn chấp nhận chung sống với ngư dân Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vào ngày 19 tháng 7 năm 1933 quân đội Pháp ban hành thông báo hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và và chín đảo trên đặt dưới thẩm quyền của đất nước Việt Nam. Một năm sau, quân đội Pháp chiếm đóng toàn bộ rạn san hô quần đảo Hoàng Sa và những đảo quần đảo lân cận. Thế chiến II vừa kết thúc, quân đội Pháp chiếm các đảo san hô của quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Thái Bình Dương trong đó có đảo Ba Bình ngày nay do Đài Loan kiểm soát.
Cuối thập niên 1950 quân đội Pháp trao trả cho Việt Nam Cộng Hòa toàn bộ lãnh hải Hoàng Sa và Trường Sa. Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành công báo số 32 ngày 29 tháng 7 năm 1961 và Sắc lệnh 174-NV ngày 13 tháng 7 1961 thành lập hành chánh quận đảo. Ngày 5 tháng 10 năm 1956 cải tổ nền hành chánh Việt Nam, khẳng định chủ quyền Biển Đông trên quần đảo Hoàng Sa Biển Đông. Trúc đó ngày 26 tháng 5 năm 1956, các nhà chức trách Việt Nam đã công khai tuyên bố chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, kể từ năm 1956-1958 đã kiểm soát toàn quần đảo Hoàng Sa và Trưởng Sa. Ngày 22 tháng 2 năm 1959, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa phái pháo hạm HQ225 tuần hải tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa luôn xem địa thế Hoàng Sa và Trường Sa là một phần lãnh hải tối quan trọng. Giữa 1956-1971, khi tàu chiến Trung cộng lâm le đến gần quần đảo Trường Sa, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã phản công mạnh mẽ và gửi công hàm phản đối nhà nước Trung Cộng. Tháng 7 năm 1973 VNCH tiếp nhận hơn một chục tàu chiến Mỹ và nhanh chóng mở rộng tác chiến. Đến tháng 2 năm 1974, Hải quân VNCH nhận trách nhiệm quyết chiến bảo vệ Hoàng Sa và không thể chừng mực như trước. Trong khi ấy hải quân Trung cộng trang bị vũ khí hạng nặng và nhiều tàu chiến, liên tục bắng phá vào đảo Nam Yến thuộc Trường Sa, đảo Nam Tử (Southwest Cay), đảo Khiêm Sa Châu-Sa (Dun Qian dải cát Milton), đảo Cảnh Hoành (Sin Cowe Island), Đảo Nam Uy (Amboyna Cay).
Ngày 11 tháng 1 năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà một lần nữa rút ra kinh nghiệm cố thủ quần đảo Hoàng Sa. Trung cộng khiêu khích bằng cách phái một tàu khu trục xâm nhập vào quần đảo Thiên Đường, Trường Sa. Ngày 16 tháng 1, có thêm một đội tàu đánh cá Trung cộng bắn phá đảo Cam Tuyền (Island Oasis). Ngày 17 tháng 1 chiếm đảo vàng-bạc của Việt Nam, và hai hòn đảo Lục Châu. Ngày 18 tháng 1 tàu chiến Trung cộng kiểm soát đảo Kính Tình (jinqing) buộc quân đội Việt Nam rút khỏi đảo, và sau đó chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa (Xisha).
Quần đảo Hoàng Sa, trận chiến Cam Tuyền, Quảng Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Ngày 19 tháng 1 năm 1974, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ quần đảo Hoàng Sa, dù thiết bị vũ khí không nhiều, quân sĩ ít vẫn phải quyết tử chiến đấu đánh bại kẻ thù xâm lược. Trung cộng đánh chìm một số tàu khu trục nhỏ của VNCH, trong khi đó tàu chiến khu trục dũng mãnh vẫn đương đầu với kẻ thù. Hai ngày sau đảo Cam Tuyền (Oasis Isles) thất thủ. Đến ngày 14 tháng 2 năm 1975 toàn quần đảo Hoàng Sa rơi vào tay Trung cộng kiểm soát, Bắc Kinh công bố Sách trắng, tiếp tục tuyên bố các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là "chủ quyền" của Trung cộng.
Việt Nam Cộng Hòa mạnh mẽ phản đối hành vi xâm lược của Trung cộng tại Biển Đông.
Trái lại chính phủ miền Bắc Việt Nam tại Hà Nội tuyên bố rõ ràng: Các lãnh hải ở Biển Đông của Việt Nam, ở phía Đông kinh tuyến 109 độ 30 phút; Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc về Việt Nam. Ngoài ra, còn có công hàm ngoại giao, loan tải trên báo chí, vẽ lại bản đồ và sách giáo khoa được chính thức miền Bắc Việt Nam công nhận quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ của Trung cộng.
Ngày 15 tháng 6 năm 1956, Bộ Trưởng Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Ung Văn Khiêm (gián điệp Yong Wenqian) đến thăm lãnh sự quán Trung cộng tại Hà Nội. Đại diện lâm thời Trung cộng Lý Chí Dân (Li Zhimin) cho biết: Theo số liệu của Việt Nam, từ một điểm của lịch sử, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc, sau đó Quyền Giám đốc Sở Nội vụ của Việt Cộng phụ trách Châu Á là Lê Lộc (Li Lu) cũng cho biết: Trong lịch sử, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong thời nhà Tống đã thuộc về Trung Quốc.
Ngày 04 tháng 9 năm 1958, Cộng hòa nhân dân Trung Quốc đã ban hành một tờ khai hải phận chiều rộng 12 hải lý, áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả các đảo ở Biển Đông. Nhật báo Nhân Dân Việt Cộng đã loan tải báo cáo vào ngày 6 tháng 9 rất đầy đủ chi tiết chủ quyền biển đảo của chính phủ Trung cộng.
Ngày 14 tháng 9, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã trao tay cho Thủ tướng Chu Ân Lai một công hàm ngoại giao chính thức. Trong công hàm này, phía Việt Nam một lần nữa được công nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc đã có từ thời cổ đại. Chính phủ Việt Nam (Hồ Chí Minh) tuyên bố hoàn toàn đồng ý với chính phủ Trung Quốc khoảng 12 dặm, đính kèm Tuyên bố và các Phụ lục của Phạm Văn Đồng.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thừa nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung cộng.
Tháng 4 năm 1975 quân đội miền Bắc Việt Nam cướp được chính quyền miền Nam Việt Nam và ngày 02 tháng 1 năm 1976 thống nhất Nam-Bắc. Sau khi thống nhất đất nước Việt Nam, nhà nước cộng sản Việt Nam không chỉ "thuận lý thừa nhận" chủ quyền của Trung Cộng đối với quần đảo Hoàng Sa đã xâm lược và cướp trước đây từ Việt Nam Cộng Hòa, mà còn liên tục công nhận các hòn đảo khác của quần đảo Trường Sa thuộc về Trung Cộng. Nhà nước CSVN công bố bản đồ thống nhất đất nước Việt Nam, phía Đông chỉ giới đường di chuyển kinh độ Đông 9, đến 118 độ kinh độ Đông. Theo sự phân chia này, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã trở thành lãnh thổ của Trung Cộng. Từ tháng 4 năm 1975 đến nay, Việt Nam đã chiếm đóng tại quần đảo Trường Sa tổng cộng 47 đảo, tuy nhiên theo thống kê của Trung Cộng, Việt Nam chỉ kiểm soát có 29 đảo. Như vậy còn 18 đảo của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa biến mất vào tay của ai? Mãi đến nay, năm 2015, vẫn không thấy nhà nước CSVN công bố chủ quyền. Tức là CSVN đã âm thầm bán cho Trung cộng theo kỹ thuật mật ước toàn diện. Cũng vào tháng 9 năm 1979 và tháng 1 năm 1982 nhà cầm quyền CSVN đã công bố Sách trắng về yêu sách của Trung cộng đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa về chủ quyền đầy đủ trên giấy vô hiệu lực.
Đặc biệt Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có chủ quyền đầy đủ qua hai tham chiếu số:
Ngày 20 tháng 3 năm 1958 Việt Nam Cộng Hòa ở Sài Gòn, phát hành một công báo 76/BNV/số HC9ND và ngày 27 tháng một năm 1959 có Điều 34/NV văn kiện quần đảo Trường Sa đặt dưới thẩm quyền của tỉnh Phước Tuy.
Thứ hai, công bố triển lãm "chứng minh hiện vật cổ" truyền thống của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa đã được thế giới công nhận, lịch sử chủ quyền vào đầu thế kỷ 17 của năm 1702. Việt Nam thống nhất chí, đánh giá những hòn đảo ngoài khơi từ vị thế gần Việt Nam phải là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chứng cứ của Việt Nam Cộng Hoà - Đại biểu đồ thống nhất chí Trường Sa gần đất liền Việt Nam. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Trước đây Việt Nam Cộng Hoà đã có những nỗ lực tăng cường kiểm soát quần đảo Trường Sa theo đặc điểm hình dạng dải đảo, cả chiều sâu chiến lược. Hiện nay, nhà nước CSVN chỉ kiểm soát được một phần quần đảo Trường Sa, gồm 29 đảo nhỏ, và tiếp tục tăng cường cơ sở hạ tầng của các đảo đá ngầm, rạn san hô, có khả năng nâng cao bảo vệ đảo Nam Tử (Southwest Cay). Năm 1992 nhà nước CSVN thiết lập một "Ban chỉ đạo tại Trường Sa Đông. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất mà CSVN đối diện là không có khả năng thành lập cơ sở đồn trú tại Trường Sa; Bộ Chính trị và Ban Bí thư, không ai chịu trách nhiệm trực tiếp trước Ủy ban Trung ương Đảng. Ngoài việc xây dựng các cơ sở quân sự khác nhau, CSVN đã để tuột tay không còn nắm bắt các đảo và đá ngầm ở một số đảo lớn như đảo Nam Tử (Southwest Cay), đảo Đôn Khiêm Sa Châu (Dun Qian bãi cát), đảo Hồng Hưu (Nam Yết), đảo Cảnh Hoành (Sin Cowe Đảo), đảo Nam Uy (Đảo Nam), và An Ba Sa Châu Thượng (Bo bãi cát).
CSVN chỉ lo tham nhũng mà quên đi chuyện bảo vệ quốc gia, bỏ ngỏ phòng thủ, không trang bị sân bay quân sự, radar, trạm thời tiết, ăng-ten truyền hình vệ tinh, bến cảng, xây dụng đèn hải đăng và những phương tiện khác, không quan tâm tổ chức nhiều tuyến du lịch thăm Trường Sa. Trong khi đó Trung cộng đã hoàn toàn xâm chiếm và thành lập cơ sở hành chánh huyện đảo Tam Sa. Nếu Việt Nam không muốn mất Trường Sa thì nhà nước CSVN cần phát triển một kế hoạch tái định cư trên quần đảo Trường Sa, thành lập các khu định cư trong các điều kiện sinh hoạt của một số rạn đảo lớn, có quân đồn trú tại đảo để giúp người dân sản xuất, chăm sóc người dân sinh sống. Hiện tại, không thể để những người dân Tàu nhập cư bất hợp pháp lên đảo Trường Sa, và tạo đời sống cho thế hệ thứ hai. Trong khi đó, Việt Nam cũng bước vào các nguồn tài nguyên dầu khí Biển Đông. Giá trị của nguồn tài nguyên dầu và khí đốt đã định sản lượng 30 tỷ USD. Trung cộng đang lâm le muốn cướp Hiệp ước "Mã Quan Điều Ước" (Shimonoseki), bởi các khoản thu nhập kinh tế này. Nhưng rất tiếc và đau lòng cho đất nước, vì các lãnh đạo CSVN đã gọi Trung Cộng là "Cha già dân tộc", quốc nạn tham nhũn,g mua bán bừa bãi vũ khí và hầu hết không thực dụng - được gọi là kho vũ khí chết, trong khi ấy Trung cộng vẫn tung hoành trên Biển Đông.
Đính kèm danh sách 47 đảo có ngư dân Việt Nam đang hiện diện trên quần đảo Trường Sa:
Tổng cộng: 21 thực thể địa lý, gồm 7 đảo san hô/cồn cùng 14 rạn san hô.
1 - Đảo Trường Sa Đông, người phương Tây gọi là Central Reef hoặc London Reef, được ngư dân Việt Nam gọi là Mũi Tị Tử, rạn Duẫn Khánh nằm ở giữa quần đảo Trường Sa, phía Tây có rạn Hoa Dương, khoảng 900 mét là một đảo san hô sâu có đầm phá 7,3-14,6 m. Việt Nam kiểm soát và tuyên bố chủ quyền của mình. Hiện nay quân đội CSVN đồn trú khoảng một trung đội. Toạ độ 8°56′6″B 112°20′54″Đ. Sơ lược đảo rạn san hô vòng chiều dài khoảng 20 km và chiều rộng khoảng 7 km, Diện tích trung bình là 75 km2. Nằm cách đá Tây khoảng 6 hải lý về phía đông bắc và cách đá Đông khoảng 13 hải lý về phía tây bắc.
2 - Đảo Nam Yết (Hồng Hưu đảo), toạ độ 10°10′54″B 114°21′36″Đ. Sơ lược đảo san hô hình bầu dục, cồn cát dài 600 m, rộng 125 m, cao 2 m với diện tích 0,06 km2 và cách đảo Ba Bình 11 hải lý về phía tây nam. Việt Nam có kế hoạch lập một khu bảo tồn biển tại đây.
3 - Đảo Hồng Hưu (Namyit Đảo) Nằm ở rìa phía nam của miền Nam Thái Bình Dương 11,25 hải lý về phía tây. Với trục dài 560 m, vị trí 180 mét, diện tích khoảng 0,08 km vuông, đảo hình bầu dục, khoảng 6 mét trên mực nước biển, trong một dải dài của rạn, vị trí phía đông. Khu vực Reef 2,56 km vuông. Đảo có nhiều cây với cây dừa, là nơi đất tụ cư của loài chim biển, có giếng nước ngọt, nhưng chất lượng nước kém, không thích hợp để uống.
4 - Đảo An Bang (An Ba sa châu), toạ độ 7°52′10″B 112°54′10″Đ. Sơ lược đảo cồn cát dài 200 m, rộng 20 m và cao 2 m. Điều kiện môi trường tại đây rất khắc nghiệt. Đảo An Ba Sa Châu (Amboyna Cay) là lãnh thổ cố hữu của Việt Nam có chủ quyền từ nhiều thế kỷ trước không thể chối cãi. Hòn đảo nằm trong quần đảo Trường Sa ở phía Nam của một bãi cát, vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng. Vị trí Quần đảo Trường Sa ở phía nam, Khu vực 0,0158 km vuông, Kinh độ 112 độ 54 phút, Vĩ độ 7 độ 54 phút vĩ độ bắc, Chiều rộng 140 mét, Chiều dài 300 mét.
5 - Đảo Sinh Tồn (Cảnh Hoành đảo), toạ độ 9°53′0″B 114°19′0″Đ. Sơ lược đảo san hình bầu dục, dài 600 m, rộng 125 m với diện tích 0,06 km2 hầu như không trồng được rau xanh nếu không cải tạo đất. Cách đảo Ba Bình 11 hải lý về phía tây nam. Việt Nam có kế hoạch lập một khu bảo tồn biển tại đây.
6 - Đảo Sinh Tồn Đông (Nhiễm Thanh sa châu), toạ độ 9°54′18″B 114°33′42″Đ. Sơ lược đảo cồn cát nằm cách đảo Sinh Tồn 15 hải lý về phía đông. Cồn dài 390 m, rộng 110 m, là một đảo san hô, đất đai khô cằn, hầu như không trồng được rau xanh nếu không cải tạo đất.
7 - Đảo Tốc Tan (Lục Môn tiêu), toạ độ 8°48′42″B 113°59′0″Đ. Sơ lược đảo một rạn san hô vòng với chiều dài khoảng 20 km và chiều rộng khoảng 7 km. Diện tích trung bình là 75 km2. Nằm ở cực đông của các thực thể thuộc Trường Sa đang do Việt Nam kiểm soát.
8 - Đảo Sơn Ca (Đôn Khiêm sa châu), toạ độ 10°22′36″B 114°28′42″Đ. Sơ lược là một đảo cồn cát nằm cách đảo Sinh Tồn 15 hải lý về phía đông, cách đảo Ba Bình 6,2 hải lý về phía đông. Đảo này dài 450 m và rộng 130 m; đất đai khá màu mỡ nhờ một lớp mùn phân chim nên đảo có nhiều cây xanh.
9 - Đảo Trường Sa Biệt danh: (Trường Sa Lớn) (Nam Uy đảo), toạ độ 8°38′30″B 111°55′55″Đ. Sơ lược đảo có tên gọi chính thức là Trường Sa nhưng nhiều nguồn tin tức và người tại đây thường dùng biệt danh Trường Sa Lớn. Trường Sa là đảo san hô đứng thứ tư về diện tích trong quần đảo (0,15 km2) và là trung tâm của thị trấn Trường Sa. Đảo có nguồn nước lợ, có đường băng, cảng cá, trạm khí tượng, lớp học, trạm xá, nằm cách đảo Ba Bình 6,2 hải lý về phía đông. Đất đai khá màu mỡ nhờ một lớp mùn phân chim nên đảo có nhiều cây xanh.
10 - Đá Cô Lin (Quỷ Hám tiêu), toạ độ 9°46′13″B 114°15′25″Đ. Sơ lược đảo rạn san hô nằm cách đảo Sinh Tồn 9 hải lý, cách Song Tử Đông 1,5 hải lý, phía tây nam và cách đá Gạc Ma 1,9 hải lý về phía tây bắc. Đá Cô Lin chìm ngập dưới nước khi thuỷ triều lên. Đảo có một ngọn đèn biển quan trọng Đây là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.
11 - Đảo Song Tử Tây (Nam Tử đảo), toạ độ 11°25′46″B 114°19′54″Đ. Sơ lược đảo Song Tử Tây nằm cách Song Tử Đông 1,5 hải lý về phía tây nam và nhỏ hơn Song Tử Đông một chút. Trên đảo có nhiều cây cối xanh tươi. Đảo có một ngọn đèn biển quan trọng. Người dân tại đây thường dùng biệt danh Trường Sa Lớn, đảo san hô đứng thứ tư về diện tích trong quần đảo (0,15 km2) và là trung tâm của thị trấn Trường Sa. Đảo có nguồn nước lợ, có đường băng, cảng cá, trạm khí tượng, lớp học, trạm xá,...
12 - Đá Tiên Nữ (Vô Khiết tiêu), toạ độ 8°51′18″B 114°39′18″Đ. Sơ lược đảo là một rạn san hô vòng nằm ở cực đông của các thực thể thuộc Trường Sa đang do Việt Nam kiểm soát. Diện tích của đá khoảng 3,4 km2. chiều dài 17 hải lý và chiều rộng 3 hải lý. Phá nước dài khoảng 11 km và rộng khoảng 2 km.
13 - Đá/Bãi Thuyền Chài (Bách tiêu), toạ độ 8°10′B 113°18′Đ. Sơ lược đảo là một rạn san hô vòng lớn có chiều dài 17 hải lý và chiều rộng 3 hải lý. Phá nước dài khoảng 11 km và rộng khoảng 2 km. Cách đảo Trường Sa 20 hải lỳ về phía đông bắc. Tại đây có khu dịch vụ hậu cần nghề cá và tổ hợp nuôi trồng thuỷ sản thí điểm.
14 - Đá Tây (Tây tiêu), toạ độ 8°51′B 112°11′Đ. Sơ lược đảo là một rạn san hô vòng nằm cách đảo Trường Sa 20 hải lý về phía đông bắc. Tại đây có khu dịch vụ hậu cần nghề cá và tổ hợp nuôi trồng thuỷ sản thí điểm. Nơi đóng quân chính của hải quân Việt Nam có chiều dài 132 m và chiều rộng 72 m.
15 - Đảo Phan Vinh (Tất Sinh tiêu), toạ độ 8°58′6″B 113°41′54″Đ. Sơ lược đảo xét theo khái niệm rộng là một rạn san hô vòng (rạn san hô vòng). Nơi đóng quân chính của hải quân Việt Nam có chiều dài 132 m và chiều rộng 72 m, có diện tích 35 km2.
16 - Đá Núi Le (Nam Hoa tiêu), toạ độ 8°42′36″B 114°11′6″Đ. Sơ lược đảo rạn san hô vòng có diện tích 35 km2. Rạn san hô nằm cách đảo Sơn Ca khoảng 6 hải lỳ về phía đông đông bắc.
17 - Đá Núi Thị (Bạc Lan tiêu), toạ độ 10°24′42″B 114°34′12″Đ. Sơ lược đảo rạn san hô nằm cách đảo Sơn Ca khoảng 6 hải lý về phía đông đông bắc, cách đảo Song Tử Tây 3,5 hải lý về phía tây nam. Diện tích của thực thể này là 1,72 km2.
18 - Đá Nam (Nại La tiêu), toạ độ 11°23′31″B 114°17′54″Đ. Sơ lược đảo rạn san hô nằm cách đảo Song Tử Tây 3,5 hải lý về phía tây nam. cách đảo Nam Yết 28 hải lý về phía tây tây nam.
19 - Đá Lớn (Đại Hiện tiêu), toạ độ 10°03′42″B 113°51′6″Đ. Sơ lược đảo một rạn san hô vòng nằm cách đảo Nam Yết 28 hải lý về phía tây tây nam. Cách đá Gạc Ma khoảng 5,5 hải lý về phía đông bắc. Đá này chìm ngập dưới nước khi thuỷ triều lên. Đây là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.
20 - Đá Len Đao (Quỳnh tiêu), toạ độ 9°46′48″B 114°22′12″Đ. Sơ lược đảo rạn san hô nằm cách đá Gạc Ma khoảng 5,5 hải lý về phía đông bắc. Đá này chìm ngập dưới nước khi thuỷ triều lên. Đây là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988. Là một rạn san hô vòng có diện tích khoảng 9,9 km2 và nằm cách đảo Trường Sa 14 hải lý về phía tây.
21 - Đá Lát (Nhật Tích tiêu), toạ độ 8°40′42″B 111°40′12″Đ. Sơ lược đảo là một rạn san hô vòng có diện tích khoảng 36,4 km2 và nằm cách đảo Trường Sa 14 hải lý về phía tây. Đá chìm ngập dưới nước khi thuỷ triều lên. Rạn san hô vòng nằm cách đá Châu Viên 10 hải lý về phía tây.
22 - Đá Đông, (Đông tiêu), toạ độ 8°49′42″B 112°35′48″Đ. Sơ lược đảo rạn san hô vòng có diện tích khoảng 36,4 km2 và nằm cách đá Châu Viên 10 hải lý về phía tây. Là một rạn san hô nằm cách đảo Sinh Tồn 9 hải lý về phía tây nam và cách đá Gạc Ma 1,9 hải lý về phía tây bắc. Đá Cô Lin chìm ngập dưới nước khi thuỷ triều lên. Đây là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.
23 - Đảo Cảnh Hoành (Sin Cowe Đảo) Một trong các đảo Trường Sa, và các rạn san hô, nằm ở vĩ độ 9 độ 52 phút kinh độ Đông 114 độ 19 phút bắc-tây, các rạn san IX trung tâm phía bắc của quần đảo Trường Sa. Đảo Nam Yết 17 hải lý. Có chín rạn trên mực nước biển, đảo lớn thứ bảy trong quần đảo Trường Sa. Ngư dân Việt Nam gọi là "Cảnh Hoành". Đảo rộng chỉ 37.700 mét vuông, 3,6 mét trên mực nước biển.
24 - Đảo Nam Tử (Southwest Cay). Nằm ở vĩ độ 11 độ 26 phút kinh độ Đông 114 độ 20 phút. 1,5 dặm biển. Đảo dài hình bầu dục. 3,9 mét trên mực nước biển. 600 mét về phía đông bắc đến Tây Nam, rộng hơn 270 mét. Diện tích khoảng 0,13 km vuông. Là hòn đảo lớn thứ sáu trong quần đảo Trường Sa. khi thủy triều thấp đảo trắng tuần san hô bao quanh cát. Đảo dừa nhiều, chim biển.
25 - Đôn Khiêm Sa Châu (Dun Qian dải cát). Xung quanh các rạn san hô bao quanh. Bãi cát khoảng 500 mét và chiều rộng 300 mét, diện tích khoảng 0,09 km vuông. 2,5-4,6 mét trên mực nước biển, có khoảng 1,3 km giữa đường kính của một rạn san hô tròn, đỉnh điểm khi ngập nước rạn san hô, và đảo Đôn Khiêm Sa Châu có độ sâu khoảng 10-18 mét đường thủy giữa bãi cát. Khoảng 500 mét và chiều rộng 300 mét, diện tích khoảng 0,07 km vuông. 2,5-4,6 mét trên mực nước biển. Có một độ sâu khoảng 10 đến 18 mét đường thủy giữa đảo.
26 - Đảo Nam Uy (Nam Đảo), vĩ độ 8 độ 38 phút 30 giây kinh độ Đông 111 độ 55 phút 55 giây. Nằm ở phía tây rặng dặm 18,5 biển phía tây nam, khoảng 12 hải lý về phía nam của bầy viện trợ Áo. Tây Bắc có Bãi biển khang thái.
27 - Đảo Bách Tiêu (Parker Reef) những rạn san hô ở quần đảo Trường Sa, rạn phẳng lớn nhất. Một số sách tiếng nước ngoài gọi là Barque Canada Reef. Tên Việt Nam Bái Thuyên rạn san hô một trong 29 hòn đảo của Việt Nam trong các đảo ở Biển Đông Bắc kết thúc 1,8 mét trên mặt nước, phía tây nam cao 4,6 mét khối đá lớn, được gọi là "trụ cột duy nhất. Vị trí Quần đảo Trường Sa, khí hậu nhiệt đới gió mùa biển, khu vực 66,4 km vuông, Vĩ độ 8 độ vĩ bắc phút 04-17, Kinh Biên độ 113 độ 15-23 phút, phía bắc vĩ độ 8 độ 04-17 phút, phút 15-23 kinh độ Đông 113 độ dao động.
28 - Đảo Tất Sanh Tiêu (Suốt đời rạn). Rạn suốt đời (Pearson Reef) nằm ở vĩ độ 8 độ 58 phút kinh độ Đông 113 độ 42 phút, bãi cát phía đông bắc, đảo san hô dài 9 km, 1,8 km rộng, độ dốc rạn nhỏ cạn hoàn chỉnh, phía đông bắc có một dải cát nhỏ, hai mét trên mực nước biển. Các rạn san hô với cát cấu trúc đá ngầm, không có thảm thực vật.
29 - Đảo Tây Tiêu (West Reef). Rạn Tây nằm ở vĩ độ 8 độ 52 phút kinh độ Đông 112 độ 14 phút. Rạn Tây là khoảng 9 km, rộng 2,4 km. Lối vào ở phía nam có đường sông sâu nước rộng có nơi nông cạn 11-15 mét, bãi cát trải dài từ đông bắc đến tây nam, dài 460 mét, rộng 24 mét, trên mực nước thủy triều của biển, mỗi khi có cơn bão lớn tràn ngập cát, vì vậy không có nước ngọt lưu trữ.
30 - Đảo Vô Lê Tiêu (Không có gì-san). Việt Nam gọi là đảo cổ tích hay đảo Đá Tiên Nữ, văn học phương Tây gọi là Tennent Reef hay Pigeon Reef. Rạn san hô khoảng 40 hải lý. Việt Nam hiện đang kiểm soát chủ quyền của mình. Nằm trên vĩ độ 8 độ 52 phút kinh độ Đông 114 độ 39 phút.
31 - Đảo Nhật Tích Tiêu (Nisseki rạn) Rạn nhật thạch ở vĩ độ 8 độ 39-40 phút, phút 39-42 kinh độ Đông 111 độ dao động. Tọa lạc tại đảo Tây Nam 12 hải lý. Tiếp xúc lúc thủy triều xuống thấp, nó là một đảo san hô. Nhưng có diện tích 5600 m; 1800 m rộng về phía bắc-nam; đầm phá đáy cát trung ương. Reef cửa phía nam, tấn tàu 20 có thể truy cập vào các đầm phá.
32 - Đại Hiện Tiêu (Đại rạn), Đảo lớn 13 km, có diện tích 24,8 km vuông, trong đó rạn san hô khu vực bằng phẳng 20,7 km vuông không có cửa đá ngầm. Việt Nam gọi là đảo Lớn.
33 - Đảo Đông Tiêu (East Reef) đảo san hô, Diện tích rạn san hô 41,6 km vuông, vĩ độ Bắc, 112 độ 36 phút kinh độ Đông, Sâu Lagoon 7,5-15 m, Khu vực đầm phá 16,5 km vuông, khu vực bằng phẳng, Đó 25,1 km vuông, Nằm tại 8 độ 49 phút vĩ độ bắc. Đảo lớn đến 13 km, rộng bốn cây số có diện tích 24,8 km vuông, trong đó rạn san hô khu vực bằng phẳng 20,7 km vuông, độ sâu nước cạn 7,5 m ở giữa. Chủ quyền của Việt Nam không thể chối cãi.
34 - Đảo Lục Môn Tiêu (Nanhua rạn san hô). Đảo rạn san hô phẳng 13 km, rộng bốn cây số, thuộc quần đảo Trường Sa, một trong những đảo lớn nhất dải san hô, độ sâu nước cạn 7,5 m ở giữa. Cuối phía tây nam của đảo san hô, có thể tiếp nhập những chiếc thuyền đánh cá 50 tấn. Địa thế rất quan trọng. Diện tích rạn san hô 41,6 km vuông, Vĩ độ 8 độ 49 phút vĩ độ Bắc, 112 độ 36 phút kinh độ Đông, Sâu Lagoon 7,5-15 m, Khu vực đầm phá 16,5 km vuông, khu vực bằng phẳng Đó 25,1 km vuông, Nằm tại 8 độ 49 phút vĩ độ bắc.
35 - Đảo Nam Hoa Tiêu (Màu xanh rạn tàu) nằm ở vĩ độ 8 độ 45 phút kinh độ Đông 114 độ 13 phút, sáu cửa rạn san hô khoảng sáu dặm biển phía đông nam. Là một rạn san hô đảo bằng phẳng tiếp xúc lúc thủy triều thấp, giữa các đầm phá, độ sâu nước đầm phá của khoảng 9 mét, với rải rác đá ẩn dưới hồ, rạn Nam Hoa Tiêu từ bắc xuống nam khoảng 10 km, với tổng diện tích 34 km vuông, trong đó diện tích căn bản 22,3 đá ngầm, khu vực giữa 11,7 km vuông đầm phá. Trong cửa rạn đông nam, chiều rộng 370 m, độ sâu khoảng 9 mét, tiếp nhập tàu 20 tấn.
36 - Đảo Bạc Lan Tiêu (Nhuộm Bãi cát xanh lá cây), vĩ độ 10 độ 25 phút kinh độ Đông 114 độ 35 phút 123- bãi cát nằm phía Đông Bắc, khoảng 5,4 hải lý tại 121. Rạn san hô gần như hình bầu dục có hình dạng, khoảng 1,8 km và chiều rộng 1,3 km. Thủy triều cao ngập nước, triều thấp tiếp xúc.
37 - Đảo Nhiễm Thanh sa châu (Nairobi rạn), Bãi cát lá cây xanh (Ranqing Shazhou) nằm trong quần đảo Trường Sa bãi cát nhỏ diện tích 0,12 km vuông. Bãi cát màu xanh lá cây nhuộm ở vĩ độ 9 độ 54 phút, kinh độ 114 độ 34 phút. Tây Bắc - Đông Nam mở rộng, khoảng 160 mét, rộng 60 mét, được bao quanh bởi một 5-10 mét, từ những bãi biển cát trắng, với tổng diện tích khoảng 0.012 km vuông.
38 - Đảo Nại La Tiêu (Lá chắn bầy). Bãi cát màu xanh lá cây nhuộm ở vĩ độ 9 độ 54 phút, kinh độ 114 độ 34 phút. Tây Bắc - Đông Nam mở rộng, khoảng 160 mét, rộng 60 mét, được bao quanh bởi một 5-10 mét, từ những bãi biển cát trắng, với tổng diện tích khoảng 0.012 km vuông. Bãi cát ngầm xanh nhuộm Đông xanh nhuộm rạn phía đông, phía bắc chủ quyền rạn, rạn san hô dài và rạn phúc, tây Hughes Reef và Simon rạn phía nam của rạn tôm hùm và rạn san phẳng Thượng viện. Đen tip rạn phía Nam tiếp xúc. Khoảng 600 mét về phía đông-đông nam và 700 mét về phía đông nam 6-7 mét chiều sâu mỗi cát đen, màu sắc thay đổi biển, có thể xác định.
39 - Đảo Kim Thuẫn Ám Sa (Collins Reef). Lá chắn bầy (Jindun Ansha), quần đảo Trường Sa là một trong nhiều quần đảo, nằm ở vĩ độ 7 độ 32 phút kinh độ Đông 111 độ 32 phút. Bãi biển ở cuối phía nam của Nan Wei nuôi bầy, độ sâu 10,9 m. 1935 công bố tên của bầy Golden Shield. Một số sách tiếng nước ngoài gọi là Kingston Shoal, năm 1998 là chiếm đóng bất hợp pháp của Việt Nam, bầy của vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới, từ bề mặt của các nước thành một mảnh của rạn san hô hình thành bởi một hòn đảo gần.
40 - Đảo Quỷ Hảm Tiêu (Joan rạn san hô), quần đảo Trường Sa trong các rạn IX trong một rạn san hô. kinh độ 9 độ 45 phút vĩ độ Bắc, 114 độ 15 phút kinh độ Đông. Rạn IX nằm ở cuối phía tây nam. Đông Nam và Red Reef ngoài bởi chỉ có 1,7 hải lý. Đó là hình vuông, chiều dài Bắc-Nam khoảng 1,8 km. Nước đá ngầm nhiều rạn san hô, bãi cát ngầm, sóng vỗ, lăng xăng, ngư dân Việt Nam công bố đảo Quỷ Hảm Tiêu. Một số sách tiếng nước ngoài có tên Collins Reef. 40 - Đảo Quỳnh Tiêu (Bãi biển Guangya) Đảo ở phía bắc vĩ độ 9 độ 46 phút kinh độ Đông 114 độ 22 phút. IX rạn san hô khoảng 1,6 hải lý về phía tây nam.
41 - Đảo Nghiễm Nhã Than (Hưng thịnh rạn), nằm ở vĩ độ 08 độ 08 phút kinh độ Đông 110 độ 27 phút, bãi biển phía tây bắc, là một đảo san hô hình bầu dục.
42 - Đảo Bồng Bột Bảo Tiêu (Man On Bãi biển), gò rạn san hô ở 58 độ vĩ bắc và 3 phút 00 giây kinh độ Đông 112 độ 17 phút 00 giây, bởi các rạn san hô và đá ngầm chia ra làm hai phần.
43 - Đảo Vạn An Than (Lee Jun bãi biển), quần đảo Trường Sa nằm ở kinh độ 109 ° 36'- 109 ° 57' vĩ độ bắc 7 ° 28'-7 ° 33' độ, là lãnh thổ cố hữu của Việt Nam. Bờ biển thiên nhiên trong thềm lục địa và cơ sở pháp lý của đảo Biển Đông và trên các rạn san hô được xây dựng ba ngôi nhà cao và ngọn hải đăng, xây dựng một nền tảng sản xuất, đồn trú của khoảng 30 người.
44 - Đảo Tây Vệ Than (David West Beach) nằm ở vĩ độ 07 độ 55 phút, kinh độ 109 độ 58 phút, phía tây nam, dài 30 km từ bắc tới nam, đông tây rộng 17 km, với trung bình độ sâu 56-93 mét, phía tây bắc cạnh của các nông nhất là 18,3 m lần tây nông sâu của 21,9-23,8 mét, ở phần cuối của san hô dưới đáy.
45 - Đảo Lý Chuẩn Than (Dân Chun Bãi biển), tại vĩ độ 7 độ 46 phút -50 phút kinh độ Đông 110 độ 26 phút -31 phút. Quần đảo Trường Sa ở phía tây, cách 12 hải lý đảo Quang Á. 9,6 km dài Bắc-Nam, chiều rộng từ đông sang tây 3,7 km, ở độ sâu 18-37 mét. Nước biển trong suốt đáy biển.
46 - Đảo Nhân Tuấn Than (Ao Nang bầy), tại 7 độ vĩ bắc và 58 độ 02 phút 8 được giao điểm, trong phạm vi của kinh độ 110 độ 35-38 phút. Quần đảo Trường Sa ở phía Tây, Tây Bắc bãi biển khoảng 3,5 dặm. Khoảng 9 km về phía nam, chiều rộng từ đông sang tây là 6,5 km. Bãi biển san hô có thể nhìn thấy phía dưới, ở phía đông 5,5 m và 9 m điểm rạn san hô sâu.
47 - Đảo Ao Nang bầy, ở vĩ độ 7 độ 42 phút, kinh độ 111 độ 45 phút. 255 bãi biển phía đông, độ sâu khoảng tám mét.
Nhà giàn ký hiệu DK16 tại thềm lục địa phía Nam của Việt Nam. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa
Cụm Song Tử: Đảo Song Tử Tây, nằm ở vĩ độ 11°25’54’’N và kinh độ 114°19’48’’E, cách đảo Song Tử Đông (do Philippin đang chiếm giữ) 1,5 hải lý. Về phía Nam cách 2,5 hải lý có đảo Đá Nam. Đảo Song Tử Tây có hình bầu dục diện tích khoảng 0,13km2, lòng đảo trũng xung quanh cao so với mực nước biển từ 4-6m.
Đá Nam Đặc điểm: nằm theo trục đông bắc-tây nam với chiều dài khoảng 2,3 km và chiều rộng khoảng 1,5 km. Có nhiều hòn đá nhô lên khỏi mặt biển khi thủy triều thấp
Cụm Trường Sa: Đảo Trường Sa, Đá Đông, Đá Lát, Đá Núi Le, Đảo Phan Vinh, Đá Tây, Đá Tiên Nữ, Đá Tốc Tan, Đảo Trường Sa Đông
Cụm Thám Hiểm: Đảo An Bang, Đá/Bãi Thuyền Chài
Quần đảo Trường Sa, Trung Cộng xâm chiếm 7 đảo chiến lược quan trọng có khả năng thông tính miền Nam Việt Nam. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Trung cộng xâm chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam, hiện nay kiểm soát tổng cộng 7 rạn san hô.
1 - Cụm Trường Sa: Đá Châu Viên Tọa độ:8°45'00"N114°11'0" E/8,75°N 114,183333°E/8,75; 114,183333. Quần đảo Trường Sa thuộc Việt Nam. Tỉnh: Khánh Hòa. Toạ độ 8°54′B 112°52′Đ. Đảo rạn san hô vòng đa phần chìm ngập dưới nước, nằm về phía đông của đá Đông.
2 - Đá Chữ Thập (永暑礁), toạ độ 9°35′B 112°54′Đ. Đảo rạn san hô lớn nằm tách biệt khỏi các thực thể khác. Tổng diện tích hơn 110 km2. Đây là trung tâm đồn trú của Trung Quốc tại Trường Sa. Cụm này gồm hai rạn san hô là đá Ga Ven và đá Lạc, lần lượt nằm cách đảo Nam Yết 8,5 và 7 hải lý về phía tây.
3 - Cụm Nam Yết: Đá Ga Ven (南薰礁), toạ độ 10°12′B 114°13′Đ. Cụm đảo gồm hai rạn san hô là đá Ga Ven và đá Lạc, lần lượt nằm cách đảo Nam Yết 8,5 và 7 hải lý về phía tây. Là một rạn san hô nằm ở đầu mút tây nam của cụm Sinh Tồn và là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.
4 - Cụm Sinh Tồn: Đá Gạc Ma (赤瓜礁), toạ độ 9°42′B 114°17′Đ. Đảo rạn san hô nằm ở phía tây bắc của đảo Sinh Tồn Đông. Chỉ nổi lên khỏi mặt nước khi thuỷ triều xuống. Rạn san hô vòng đa phần chìm dưới nước, nằm cách đảo Vĩnh Viễn 51 hải lý về phía nam. Nằm ở đầu mút tây nam của cụm Sinh Tồn và là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.
Gần đây, hình ảnh vệ tinh mới nhất được phổ biến cho thấy trong tháng hai năm 2015 đã có những xây dựng mở rộng các đảo và đá ngầm ở Biển Đông, bao gồm rạn san hô Vĩnh Thử Tiều (Yongshu Reef), Chử Bích Tiều (Subi Reef Mischief Reef), Mỹ Tể Tiều (Red Reef), Xích Qua Tiều (Hughes Reef), Đông Môn Tiều (Ga Ven), rạn san hô Nam Huân Tiều (Huayang), rạn Hoa Dương Tiều (Anderson) An Đạt Tiều.
5 - Đá Tư Nghĩa (东门礁), toạ độ 9°56′B 114°31′Đ. Đảo rạn san hô nằm ở phía tây tây bắc của đảo Sinh Tồn Đông. Chỉ nổi lên khỏi mặt nước khi thuỷ triều xuống. Là một rạn san hô vòng nằm cách đảo Thị Tứ 26 km về phía tây nam. Trung Quốc có dự định xây dựng một đường băng tại đây.
6 - Cụm Bình Nguyên: Đá Vành Khăn (美济礁), toạ độ 9°55′B 115°32′Đ. Đảo rạn san hô vòng đa phần chìm dưới nước, nằm cách đảo Vĩnh Viễn 51 hải lí về phía nam. Đây là nơi từng diễn ra nhiều tranh chấp căng thẳng giữa Philippines và Trung Quốc trong thập niên 1990. Nằm ở tọa độ 09,55 độ bắc/115,32 độ đông, là một bãi chìm có vài mỏm đá nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Có một cái đầm. Vào tháng 2 năm 1995, Trung quốc đã từng xây dựng hệ thống trú phòng (a complex) bằng gỗ trên những cột trụ, bắt đầu chính thức việc chiếm đóng đảo này. Năm 1999, Philippines phản đối việc xây dựng ấy và cho rằng đó là một đồn quân sự, đe dọa an ninh và quốc phòng của Philippines, vì nó chỉ cách Palawan 130 dặm (209 cây số). Trung quốc khai rằng nó chỉ là một nơi trú ngụ cho ngư dân. Là một rạn san hô vòng đa phần chìm dưới nước, nằm cách đảo Vĩnh Viễn 51 hải lý về phía nam.
7 - Cụm Thị Tứ: Đá Xu Bi (渚碧礁), toạ độ 10°56′B 114°05′Đ. Đảo rạn san hô vòng nằm cách đảo Thị Tứ 26 km về phía tây nam. Trung Quốc có dự định xây dựng một đường băng tại đây. Là một rạn san hô vòng nằm cách đảo Thị Tứ 26 km về phía tây nam. Trung Quốc có dự định xây dựng một đường băng tại đây.
Trung Cộng đã có hành vi xâm chiếm 7 đảo trên, tại quần đảo Trường Sa Biển Đông của Việt Nam.
Nhà nước CSVN trong suốt nhiều năm qua đã chủ mưu đồng lõa bán biển Đông cho Trung Cộng. Do đó nhân dân Việt Nam phải có những hành động cụ thể đối phó, bảo vệ không thể để mất chủ quyền của ông cha. Toàn nhân dân hãy đứng lên tạo ra dư luận quốc tế, nếu ngồi chờ đừng nói ngày mai hy vọng!
05.07.2015