Kinh tế Việt Nam – một năm nhìn lại - Dân Làm Báo

Kinh tế Việt Nam – một năm nhìn lại

Ts Trần Vinh Dự Năm 2011 là một năm bão tố trên lĩnh vực kinh tế của Việt Nam. Năm 2011 cũng là năm Việt Nam đứng trước ngã ba đường – quyết liệt đổi mới mạnh mẽ để khởi đầu một giai đoạn phát triển mới hoặc chìm sâu vào khủng hoảng và bẫy cân bằng thấp. 

Để đánh giá cho đúng các diễn biến đã xảy ra trong năm qua thì không thể nhìn nhận năm 2011 như là một giai đoạn tách rời mà phải đặt nó trong chuỗi lịch sử ít nhất từ khoảng 5 năm trở lại đây. Lý do là các diễn biến trong suốt quá trình lịch sử này đã kết đọng lại các hậu quả trong hệ thống kinh tế để cuối cùng bộc lộ ra vào năm 2011. 

Cơn bão lạm phát và thách thức đối với người nghèo 

Diễn biến được quan tâm nhiều nhất trong năm qua là tình trạng mất giá của tiền Đồng. Tính đến hết tháng 12, tốc độ tăng trưởng CPI của Việt Nam trong cả năm 2011 là 18,12%, cao hơn rất nhiều so với mục tiêu ban đầu của Quốc Hội và Chính phủ đề ra hồi đầu năm này (7%). Nhìn lại trong khoảng 10 năm trở lại đây, sự mất giá của tiền Đồng năm 2011 chỉ thua năm 2008 chút ít và cao hơn đáng kể so với tất cả các năm còn lại. 

So với 5 năm trước, tiền Đồng mất giá gần một nửa. CPI của năm 2011 bằng 1,96 lần năm 2006, tức là 100 Đồng của năm 2011 chỉ bằng 50,1 đồng của năm 2006. So với 10 năm trước, giá trị tiền Đồng chỉ còn bằng hơn một phần ba. CPI của năm 2011 bằng 2, 58 lần so vơi CPI của năm 2011, tức là 100 Đồng của năm 2011 chỉ bằng 38,6 Đồng của năm 2001.


Lý do cơ bản nhất để lạm phát bộc lộ mạnh vào những năm gần đây là quá trình phát triển kinh tế dựa vào đầu tư và tình trạng kém hiệu quả trong việc sử dụng vốn trong suốt cả thập kỷ qua. Hiện tượng này phổ biến cả trong khu vực doanh nghiệp nhà nươc (DNNN) và khối doanh nghiệp tư nhân/ nước ngoài (DNTN). Việc phát triển dựa trên đầu tư khiến lượng cung tiền trong nền kinh tế liên tục tăng với tốc độ chóng mặt. Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) , trong suốt giai đoạn 2006 tới 2010, lượng cung tiền M2 của Việt Nam liên tục tăng ít nhất 20% mỗi năm, cá biệt có năm tăng tới 46% (2007). Lượng cung tiền M2 của năm 2010 là 2789,2 nghìn tỷ Đồng, tăng gấp hơn 3 lần so với năm 2006 và gấp xấp xỉ 10 lần so với năm 2001. 

Việc tăng cung tiền với gia tốc lớn như vậy trong khi thực lực của nền kinh tế không mạnh. Hiệu quả sử dụng vốn thấp khiến lượng hàng hóa sản xuất ra không tăng cùng nhịp với tăng cung tiền. Từ đó tất yếu dẫn tới giá cả leo thang – hay nói cách khác là tiền Đồng mất giá. Cao điểm của lạm phát là vào năm 2008 do tốc độ tăng cung tiền quá lớn vào năm 2007. Tiếp sau đó, năm 2009 lạm phát hạ nhiệt xuống dưới một con số vì chính sách thắt chặt trong năm 2008. Tuy nhiên với việc chính phủ nới lỏng cung tiền trở lại vào năm 2009 và 2010, tiền Đồng lại tiếp tục rơi vào vòng xoáy mất giá trong năm 2010 và 2011. 

Lạm phát cao đẩy cuộc sống của người dân, đặc biệt là những người có thu nhập trung bình hoặc dưới trung bình, vào vòng soáy nguy hiểm của suy thoái sức mua. Đó là vấn đề lớn nhất về kinh tế của năm 2011. 

Doanh nghiệp và ngân hàng vượt cạn 

Tất cả hệ thống doanh nghiệp, kể cả trong và ngoài Chính phủ Việt Nam, đều liên tục tăng quy mô và lĩnh vực hoạt động dựa trên việc đi vay. Tài sản thế chấp hấp dẫn đối với hệ thống ngân hàng thường là bất động sản, và trong một giai đoạn nhất định, bao gồm cả cổ phiếu. Việc giá đất tăng lên trung bình từ 10 tới 30 lần (tùy địa bàn) trong vòng 10 năm trở lại đây khiến câu chuyện vay nợ dựa vào thế chấp bất động sản trở nên đặc biệt dễ dàng. 

Tình trạng dùng đòn bẩy tài chính quá mức (overleveraged) trở nên phổ biến ở hầu như khắp nơi. Theo tính toán của IMF, tỷ lệ nợ trên vốn của các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam trong giai đoạn 2009-2010 là xấp xỉ 100%, cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực như Trung Quốc và Indonesia (dưới 90%), Thái Lan và Malaysia (dưới 80%), hoặc Singapore (xấp xỉ 70%). Tình trạng vay mượn của doanh nghiệp cũng được phản ánh ở mức tăng trưởng tín dụng nội địa (là các khoản cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam). Tỷ lệ này tăng liên tục ít nhất 22% trong 5 năm từ 2006 tới 2010, có năm lên tới xấp xỉ 50% (2007). Tính theo GDP, tỷ lệ tín dụng nội địa của Việt Nam năm 2010 đã lên tới 131.5%. 

Việc vay mượn nhiều đẩy doanh nghiệp vào hai hố đen: Thứ nhất là công suất dư thừa do đầu tư mở rộng quy mô vô tội vạ và kinh tế toàn cầu suy xụp khiến thị trường đầu ra không tốt như dự đoán. Thứ hai là gánh nặng lãi suất quá lớn. Kết hợp hai yếu tố này lại dẫn tới một thực tế là doanh nghiệp không có khả năng trả các khoản nợ đến hạn, tạo ra nhu cầu đảo nợ (refinancing) và vốn hóa lãi vay. Chỉ riêng việc vốn hóa lãi vay cũng đã tạo ra nhu cầu tăng trưởng tín dụng. Vì thế trong năm 2011 vừa rồi, mặc dù hầu các ngân hàng không cho vay các khoản vay mới nhưng tăng trưởng tín dụng vẫn lên tới 15%. 

Tình trạng lạm phát cao trong năm 2011 và các khoản nợ đến hạn không trả được (nợ xấu hay nợ dưới chuẩn) ngày càng lớn khiến cho các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Điều này lại bị làm trầm trọng hơn do bản thân hệ thống ngân hàng ở Việt Nam cũng đang ở trong tình trạng quá yếu kém. Hệ thống ngân hàng trải qua một giai đoạn mở rộng quá nhanh đã rơi vào tình trạng không có đủ nguồn nhân lực có chất lượng để vận hành. Thêm vào đó, các vấn đề về rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng và của các ông chủ khiến việc kiểm soát chất lượng tín dụng bị xem nhẹ. 

Các ngân hàng nhỏ, vốn chịu nhiều rủi ro hơn các ngân hàng lớn do không thể đa dạng hóa các khoản vay tốt như ngân hàng lớn, trở thành các nạn nhân đầu tiên. Khi cơn bão nợ dưới chuẩn ập tới, họ trở nên mất thanh khoản và buộc phải lao vào cuộc cạnh tranh lãi suất để thu hút nguồn tiền gửi. 

Do thực tế ở Việt Nam chưa có câu chuyện phá sản ngân hàng và người gửi mất tiền, cộng thêm cam kết của chính phủ khẳng định lại việc này khiến cho người gửi tiền yên tâm tham gia cuộc chạy đua lãi suất trong đó ngân hàng nào chào lãi suất cao hơn sẽ thắng. Kết cuộc là các ngân hàng lớn không thể không tham gia vào cuộc đua và đẩy mặt bằng lãi suất trên toàn thị trường lên mức cao gần như không tưởng. Trước khi Ngân hàng Chính phủ Việt Nam áp dụng triệt để mức trần lãi suất huy động 14%, đã có những thời kỳ lãi suất huy động lên tới trên 20% trong khi lãi suất cho vay trung bình giao động trong mức 25% tới 30%. 

Đến lượt nó, câu chuyện chạy đua lãi suất lại có tác dụng ngược lại với doanh nghiệp, đẩy họ vào khó khăn hơn, và làm cho khả năng trả nợ kém đi khiến cho tình trạng mất thanh khoản trong ngân hàng, nhất là các ngân hàng nhỏ, thêm trầm trọng. Đây là vòng xoáy đi xuống nguy hiểm nếu không có giải pháp dứt khoát của Chính phủ Việt Nam. Đây là vấn đề lớn thứ 2 của kinh tế năm 2011.


Động thái chính sách của Chính phủ Việt Nam

Quyết tâm chính trị năm qua của Chính phủ Việt Nam được tập trung vào việc giải quyết các bài toán cấp bách nhất về kinh tế. Nghị quyết 11 xuất hiện từ tháng 4 năm 2011 với mục tiêu là tấn công trực diện vào cơn bão lạm phát với hai gọng kìm thắt chặt chính sách tài khóa qua cắt giảm đầu tư công và thắt chặt tiền tệ qua hạn chế tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là tín dụng cho khu vực phi sản xuất. Mặc dù chịu rất nhiều áp lực trong thực hiện, đặc biệt là từ các đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp từ chính sách thắt chặt này, nhưng cho tới nay chính phủ vẫn giữ vững được cam kết của mình. 

Sau khi lên tới mức cao nhất vào tháng 4, 2011, tăng trưởng CPI đã giảm nhanh và trở lại mức có thể kiểm soát được từ nửa sau của năm. Đặc biệt từ tháng 8, 2011, tăng trưởng CPI tính theo tháng đã giảm xuống còn dưới 1%. Đây là cơ sở để dự đoán nếu Chính phủ Việt Nam tiếp tục kiên định con đường đang đi như trong năm 2011 thì lạm phát có thể quay về ở mức một con số trong năm 2012. 

Một thành công hết sức quan trọng khác của chính phủ là bắt tay vào vực dậy hệ thống ngân hàng. Quá trình này được khởi động, không rõ là ngẫu nhiên hay có chủ ý, từ chính sách áp trần lãi suất 14% của Ngân hàng Chính phủ Việt Nam. Mặc dù các ngân hàng thương mại vẫn có các kỹ thuật để “lách” quy định này, tuy nhiên, việc lách là khó khăn hơn nhiều, và hầu như không áp dụng được đối với những người gửi tiền nhỏ lẻ. Động thái chính sách này đã dẫn tới chuyện lãi suất cho vay của các ngân hàng đã được kéo thấp xuống đáng kể, mặc dù chưa hoàn toàn giống như kỳ vọng ban đầu của Ngân hàng Trung ương là 17%. 

Chính sách áp trần lãi suất huy động này đã đẩy các ngân hàng yếu vào chỗ không còn cửa để che dấu cái yếu của mình bằng trò chơi chạy đua lãi suất. Hàng loạt các ngân hàng yếu ngay lập tức bộc lộ rõ mức độ nghiêm trọng của tình trạng mất thanh khoản của họ và phải đưa vào diện kiểm soát đặc biệt. Chính từ thực tế được phơi bày rõ ràng này, cuộc cải cách hệ thống ngân hàng mới bắt đầu với mũi tên bắn đầu tiên là việc sáp nhập 3 ngân hàng Đệ Nhất, Tín Nghĩa, và Thương mại cổ phần Sài Gòn.


Không chỉ có cải cách ngân hàng, Chính phủ Việt Nam còn đưa ra thêm hai trọng điểm khác trong “chiếc đinh ba cải cách”. Đó là cải cách doanh nghiệp Chính phủ Việt Nam và cải cách về đầu tư công. Việc cải cách đầu tư công một phần là tiếp nối tinh thần của Nghị quyết 11, nhưng phần quan trọng hơn là tạo ra các cơ chế thích hợp có thể thực hiện được để nâng cao hiệu quả của các dự án đầu tư công của Chính phủ Việt Nam. Việc cải cách doanh nghiệp Chính phủ Việt Nam cũng đã được bắt đầu với việc công khai hóa các vấn đề về quản trị và tài chính trong các tập đoàn và tổng công ty Chính phủ Việt Nam lớn như Petrolimex và EVN. 

Kinh tế Việt Nam giữa ngã ba đường 

Những thách thức hiện nay đang đặt nền kinh tế Việt Nam ở ngã ba đường. Hành trình tăng trưởng của Việt Nam trong khoảng 10 năm qua dựa trên các yếu tố không bền vững và không tiếp nối trong giai đoạn tới. Nếu không có những hành động cụ thể hoặc những giải pháp không triệt để và thiếu quyết đoán có thể đẩy nền kinh tế vào một vòng xoáy đi xuống nguy hiểm. Kinh tế Việt Nam có thể tiếp tục chìm đắm trong khủng hoảng với lạm phát cao, tăng trưởng thấp, thậm chí cả những đổ vỡ hệ thống từ khối ngân hàng và doanh nghiệp. Điều này đến lượt nó có thể dẫn tới việc xói mòn lòng tin của công chúng và gây ra những bất ổn xã hội và khiến Việt Nam biến mất khỏi danh sách của các điểm hẹn của dòng chảy đầu tư và thương mại quốc tế. 

Năm 2012 sẽ là năm tiếp tục thử thách sức chịu đựng của công chúng và doanh nghiệp. Nó cũng là năm thử thách quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết và chương trình cải cách đã đặt ra. Nếu các nỗ lực cải cách này bị bỏ dở giữa chừng, câu chuyện 2011 sẽ trở lại câu chuyện 2008, tức là tình hình có vẻ tốt lên trong một thời gian rất ngắn (2009) sau đó lại quay lại quỹ đạo khủng hoảng kéo dài (2010-2011) và kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục nằm trong trạng thái “cân bằng thấp” như thời gian vừa qua. 

Một đại phẫu triệt trên mọi mặt của nền kinh tế để giải quyết dứt điểm các khuyết tật và yếu kém trong hệ thống sẽ là cần thiết để đẩy hành trình cải cách kinh tế của Việt Nam lên một nấc thang mới. Tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn sẽ chậm hơn, sẽ phải có những quyết định khó khăn đòi hỏi sự hi sinh, sẽ có những nhóm lợi ích phải trả giá, những doanh nghiệp không còn tồn tại, nhưng tất cả những việc này là cần thiết. Tuy khó, nhưng đặt trong tiến trình lịch sử của 25 năm trở lại đây, thì những vấn đề đặt ra của giai đoạn này và các giải pháp tương ứng không phải là thách thức quá lớn và quá khắc nghiệt như giai đoạn 1986 khi con tàu Việt Nam lần đầu tiên tiến vào vùng nước không hề có trên hải đồ (uncharted water). 

Bài học lịch sử ngày Đổi Mới 

Cũng nên nhắc lại chuyện 25 năm trước, ngày 18 tháng 12 năm 1986 đánh dấu một bước ngoặt vô cùng lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Nền kinh tế bao cấp, một trong những đặc trưng quan trọng nhất của hệ thống kinh tế cũ từng tồn tại ở Việt Nam trong suốt 40 năm, chính thức bị xóa bỏ. Cơ chế quản lý kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa từ trung ương quen thuộc tồn tại từ ngày thành lập nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa bị đẩy vào quên lãng. Trọng tâm phát triển kinh tế bằng con đường công nghiệp nặng theo mô hình Xô Viết cũng bị ném vào thùng rác. 

Không hề có kinh nghiệm, không được chuẩn bị, không có những kế hoạch bài bản, và không chắc trên con đường mới sẽ có những thách thức như thế nào, nhưng Việt Nam mạnh dạn đi theo một con đường mới. Nền kinh tế nhiều thành phần được chấp nhận để thế chỗ cho nền kinh tế bao cấp, cơ chế hạch toán kinh doanh tiến được áp dụng thay cho cơ chế kế hoạch hóa, và trọng tâm phát triển kinh tế được chuyển từ công nghiệp nặng sang sản xuất lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, và hàng xuất khẩu. 

Quyết tâm này đã đem lại những thành công bất ngờ. Vượt qua tất cả những khó khăn và thách thức trên con đường đã chọn, Việt Nam đã chuyển mình từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, GDP bình quân đầu người chỉ có 86 USD, và phần lớn dân chúng sống dưới mức nghèo khổ tuyệt đối, thành một nước có thu nhập thuộc nhóm trung bình của thế giới với GDP bình quân đầu người năm 2011 lên tới 1300 USD. Con số GDP bình quân đầu người của Việt Nam hiện nay đã gần xấp xỉ mức GDP bình quân đầu người của Ấn Độ - vốn là nước viện trợ cứu đói cho Việt Nam hồi thập kỷ 1980s. 

Nhìn về phía trước, có lý do để tin rằng một kịch bản tốt đẹp hơn sẽ trở thành hiện thực cho nền kinh tế Việt Nam. Các cam kết và kế hoạch cải cách của nhà nước, đặc biệt là lộ trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, hệ thống doanh nghiệp nhà nước, và lĩnh vực đầu tư công ban hành trong những tháng cuối năm 2011 là những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho quá trình này. Kiên định và quyết tâm theo đuổi con đường cải cách sẽ là chìa khóa để dẫn tới những thành công mới. Đây cũng là mong muốn và kỳ vọng của tuyệt đại đa số người dân Việt Nam cho dịp đầu năm mới này. 




Bình Luận

Thời Sự

Chuyên đề

 
http://danlambaovn.blogspot.com/search?max-results=50
Copyright © 2014 Dân Làm Báo