Nguyễn Hưng Quốc (VOA) - Từ thập niên 1980 đến nay, một trong những vấn đề chính trị được thế giới, ít nhất là ở Tây phương, quan tâm nhiều nhất chắc chắn là vấn đề dân chủ; và trong vấn đề dân chủ, yếu tố trung tâm, thu hút sự chú ý của mọi người nhiều nhất, chính là vấn đề xã hội dân sự. Vậy giữa xã hội dân sự và dân chủ có quan hệ như thế nào?
Trong bài nói chuyện nhan đề “Xã hội dân sự có thể làm gì để phát triển dân chủ” (What Civil Society Can Do to Develop Democracy) được trình bày tại hội nghị của giới lãnh đạo của Tổ chức Phi chính phủ (NGO) tại Baghdad ngày 10 tháng 2 năm 2004, Larry Diamond (1) tóm tắt 11 việc mà xã hội dân sự có thể đóng góp vào tiến trình dân chủ hoá như sau:
Thứ nhất và căn bản nhất, nó có chức năng hạn chế và kiểm soát quyền lực của nhà nước bằng cách theo dõi cách hành xử quyền lực của giới lãnh đạo và báo động cho dân chúng biết về những sự lạm quyền.
Thứ hai, nó vạch trần nạn tham nhũng của các giới chức chính phủ và vận động cải cách việc quản trị quốc gia.
Thứ ba, nó cổ vũ việc tham gia của dân chúng vào các sinh hoạt chính trị bằng cách giáo dục mọi người về các quyền và bổn phận của công dân.
Thứ tư, nó giúp phát triển các giá trị khác của đời sống dân chủ như lòng khoan dung, tinh thần thoả hiệp và sự kính trọng đối với các ý kiến khác biệt.
Thứ năm, nó có thể giúp phát triển các chương trình giáo dục ý thức công dân trong nhà trường.
Thứ sáu, nó là nơi bày tỏ các quan điểm gắn liền với những lợi ích khác nhau trong xã hội, vận động chính phủ quan tâm đến các lợi ích ấy (như của phụ nữ, học sinh, luật sư, bác sĩ, v.v.)
Thứ bảy, nó cung cấp các hình thức đối thoại và liên kết xuyên qua các ranh giới bộ lạc, ngôn ngữ, tôn giáo và những thứ ràng buộc khác thường thấy trong xã hội cũ.
Thứ tám, nó cung cấp các khoá huấn luyện cho những nhà lãnh đạo các cấp trong tương lai.
Thứ chín, nó giúp cung cấp thông tin cho quần chúng về những vấn đề liên quan đến đời sống công cộng.
Thứ mười, nó đóng vai trò quan trọng trong việc làm môi giới hoá giải các xung đột bằng cách tạo ra những diễn đàn chung để mọi người cùng thảo luận.
Cuối cùng, thứ mười một, nó có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giám sát các cuộc bầu cử một cách khách quan và công bằng.
Mặc dù bản liệt kê của Larry Diamond khá dài, nó vẫn còn đơn giản và nhất là, khá phiến diện: Ông chỉ nêu lên được những khía cạnh thuộc mặt nổi của của vấn đề. Mặt nổi thứ nhất: Ông chỉ tập trung vào các hoạt động cụ thể thay vì ý nghĩa hay những ảnh hưởng sâu sắc đối với nhận thức và tâm lý, hay nói rộng hơn, văn hóa ứng xử trong lãnh vực chính trị của con người. Mặt nổi thứ hai: Dù nhắc đi nhắc lại chữ xã hội dân sự nhiều lần, những điều được ông phân tích vẫn chỉ dừng lại ở các tổ chức thuộc khu vực thứ ba, đặc biệt, các tổ chức phi chính phủ, tức là chỉ ở mặt nổi của xã hội dân sự. Liên quan đến vấn đề này, Katherine Verdery có một đề nghị rất sâu sắc: Nên phân tích xã hội dân sự như là những tác tố (operator) mang tính biểu tượng chủ chốt, những yếu tố thuộc lãnh vực ý thức hệ hơn là những thực tế liên quan đến bình diện tổ chức (2).
Tuy nhiên, khuyết điểm quan trọng nhất trong cách nhìn của Larry Diamond là ở chỗ nó hàm chứa một nghịch lý: Tất cả những việc làm mà ông nêu, như kiểm soát quyền lực, chống tham nhũng, tạo diễn đàn chung để mọi người đối thoại với nhau nhằm thay đổi chính sách, v.v. chỉ có thể thực hiện được với điều kiện là chúng được chính phủ cho phép, nghĩa là chính phủ đã ít nhiều chấp nhận một số quyền liên quan đến dân chủ. Tất cả các công việc ấy, cũng như tác dụng của chúng, đều trở thành bất khả thi dưới các chế độ toàn trị. Như vậy, từ cái nhìn của Larry Diamond, các tổ chức phi chính phủ chỉ có chức năng củng cố và hoàn thiện các nền dân chủ mới manh nha hơn là thực sự tạo ra một nền dân chủ mới từ những xiềng xích của các chế độ toàn trị.
Trong bài “Civil Society, Democratization and Development: Clearing the Analytical Ground” (3), Gordon White rất có ý thức trong việc phân biệt hai khía cạnh của xã hội dân sự: một, với tư cách một khái niệm về tính chất biệt lập, tự trị và tự nguyện của các hiệp hội trong hình thức thuần túy của chúng; và hai, với các tổ chức tồn tại trong thế giới thực nghiệm nhằm thể hiện những tính chất ấy. Nhưng khi phân tích các kỳ vọng về vai trò của xã hội dân sự trong tiến trình dân chủ hóa, ông vẫn ít nhiều nghiêng về khía cạnh tổ chức. Theo ông, bốn kỳ vọng chính có thể xảy ra:
Thứ nhất, sự lớn mạnh của xã hội dân sự có thể làm thay đổi cán cân quyền lực giữa nhà nước và xã hội với thái độ thiên vị hẳn về phía xã hội; từ đó, góp phần hình thành nên một sự đối lập cân bằng (balanced opposition) vốn được xem là điều kiện của dân chủ. Dưới những chế độ toàn trị, kỳ vọng này thấp hơn: nó dần dần nâng cao hiệu năng của các lực lượng xã hội đã được tổ chức nhằm làm suy yếu tham vọng khống chế toàn bộ đời sống xã hội của nhà nước.
Thứ hai, khi xã hội dân sự đủ mạnh, nó có thể củng cố các tiêu chuẩn đạo đức công cộng và nâng cao tính khả kiểm (accountability) của cả các chính trị gia lẫn bộ máy công quyền.
Thứ ba, xã hội dân sự có thể đóng vai trò quan trọng trong việc làm trung gian giữa xã hội và nhà nước, giữa các công dân và hệ thống chính trị. Trong trường hợp lạc quan, nó có thể chuyển tải các yêu sách của dân chúng hoặc một bộ phận dân chúng đến giới cầm quyền, từ đó, làm thay đổi một số chính sách của họ.
Thứ tư, nó có thể đóng vai trò tích cực trong việc thay đổi các luật lệ trong trò chơi chính trị theo định hướng dân chủ.
Ở trên chỉ là những kỳ vọng (expectation). Các kỳ vọng ấy chỉ có thể biến thành hiện thực trong những điều kiện tối ưu, hơn nữa, với một chút may mắn.
Liên quan đến quan hệ giữa xã hội dân sự và dân chủ hóa, tôi thích lý thuyết về vốn xã hội (social capital) của Robert Putnam hơn. Trong khi vốn vật lý (physical capital) gắn liền với các vật thể, vốn nhân sự (human capital) gắn liền với từng cá nhân, vốn xã hội lại nảy sinh từ quan hệ giữa các cá nhân với nhau. Trong cuốn Making Democracy Work: Civic Tradition in Modern Italy, xuất bản năm 1993, Putnam nêu vấn đề: Tại sao dân chủ phát triển tốt đẹp ở nơi này hơn là ở các nơi khác? Quan sát sinh hoạt ở 20 địa phương trên đất Ý, những nơi có cùng một hệ thống chính trị và chịu sự chi phối của những chính sách giống nhau từ trung ương, Putnam nhận thấy, nói chung, việc thực hiện các chính sách ấy ở miền Bắc có hiệu quả hơn hẳn ở miền Nam. Tại sao? Lý do, theo Putnam, không phải là do kinh tế hay giáo dục mà chủ yếu ở các cộng đồng dân sự: Ở miền Nam, chính trị được cấu trúc theo chiều dọc (vertically structured politics), từ trên xuống dưới, đời sống xã hội bị phân mảnh và cô lập, làm phát sinh thứ văn hoá bất tín nhiệm (culture of distrust), không ai tin ai cả; ở miền Bắc, ngược lại, quan hệ xã hội phát triển theo chiều ngang với vô số các đoàn nhóm khác nhau; phần lớn chỉ có tính chất giải trí, như các ca đoàn và các câu lạc bộ bóng đá, ở đó, dân chúng thường xuyên gặp gỡ nhau, gắn bó với nhau, thông cảm với nhau, tạo thành những mạng lưới xã hội, qua đó, củng cố sự tin cậy lẫn nhau, và từ sự tin cậy ấy, người ta dễ dàng tương nhượng nhau. Theo Putnam, chính ba yếu tố mạng lưới xã hội (social network), sự tín nhiệm (trustworthiness) và các quy phạm hay chuẩn mực về sự tương nhượng (norms of reciprocity) ấy đã tạo thành cái vốn xã hội; và chính cái vốn xã hội ấy đã góp phần làm nảy nở dân chủ.
Từ lý thuyết vốn xã hội của Putnam và quan niệm của các lý thuyết gia tự do sau này, tôi nghĩ chúng ta có thể hình dung các tác động chính của xã hội dân sự đối với tiến trình dân chủ hoá ở hai cấp độ khác nhau, từ thấp đến cao, từ phạm vi cá nhân và liên cá nhân đến tổ chức và cả cộng đồng:
Ở cấp cá nhân và liên cá nhân, xã hội dân sự có mấy tác động chính:
Một, phát triển ý thức công dân, cụ thể là ý thức về quyền và bổn phận của công dân đối với đất nước; xem những vấn đề chung của đất nước là những vấn đề của chính mình chứ không phải của ai khác.
Hai, phát triển các mạng lưới xã hội như một tập hợp của những người có cùng một quan tâm và một lý tưởng chung.
Ba, phát triển sự tin cậy lẫn nhau để làm chất keo nối kết các mạng lưới xã hội ấy.
Bốn, phát triển khả năng đối thoại với người khác, từ đó, biết tôn trọng những sự khác biệt, biết chấp nhận tính chất tương đối của cuộc đời, biết tương nhượng và biết hợp tác với nhau để thực hiện những ước mơ chung.
Có thể xem các yếu tố trên như một cơ sở hạ tầng của xã hội dân sự. Cơ sở ấy một phần nằm trong nhận thức của cá nhân, mặt khác, nằm trong thói quen hành xử có tính chất liên cá nhân.
Ở cấp độ tổ chức, có tính tập thể, xã hội dân sự có thể có mấy tác động chính:
Một, tạo nên một tiếng nói chung để vang xa và được nhiều người lắng nghe, từ đó, trở thành một sức mạnh, ít nhất là trong dư luận, từ dư luận quốc nội đến dư luận quốc tế.
Hai, khi đã được lắng nghe, những tiếng nói ấy trở thành một sự phản biện công khai đối với chính phủ để, với những mức độ khác nhau, tạo thành những áp lực lên chính phủ để chính phủ hoặc tăng cường tính khả kiểm hoặc thay đổi các chính sách.
Ba, đưa ra những đề nghị khác, như những khả năng để lựa chọn (alternative), đối với các chính sách của chính phủ để mọi người nhận thấy, thứ nhất, với cùng một vấn đề, có thể có nhiều phương án giải quyết khác nhau; thứ hai, phương án của chính phủ không phải là phương án duy nhất, thậm chí, chưa hẳn đã là một phương án tối ưu.
Bốn, có thể trở thành một lực lượng đối trọng của chính phủ để không những thay đổi các chính sách mà, trong những trường hợp lạc quan nhất, có thể thay đổi được cả cơ chế.
Xin nhấn mạnh một số điểm liên quan đến các tác động nêu trên:
Thứ nhất, hai cấp độ ở trên khác nhau ở mức cao và thấp, rộng và hẹp, nhưng chúng không nhất thiết phải tuần tự theo thời gian. Trong một số trường hợp đặc biệt, ví dụ, do những khủng hoảng trong nội bộ giới cầm quyền hoặc do những áp lực từ bên ngoài, các tác động thuộc cấp tập thể có thể xuất hiện trước khi các tác động thuộc cấp cá nhân và liên cá nhân thực sự chín muồi. Tuy nhiên, trong trường hợp ấy, ngay cả khi may mắn thay đổi được chế độ, người ta cũng chỉ có được một thứ xã hội dân sự yếu ớt, chưa bén rễ sâu trong nhận thức và tâm lý của quần chúng, nghĩa là thực sự biến thành một thứ văn hoá dân sự. Nó sẽ không đủ vững để làm một nền móng cho dân chủ, do đó, dân chủ rất dễ lâm vào nguy cơ bị nghiêng ngả, thậm chí, sụp đổ.
Thứ hai, ở cấp độ cá nhân và liên cá nhân, không phải cứ tham gia vào các tổ chức xã hội là tự động người ta có thể làm phát triển “vốn xã hội” và từ đó, văn hóa công dân (civic culture). Vấn đề còn tùy thuộc vào nội dung và bản chất của các tổ chức xã hội ấy: Chúng phải là xã hội dân sự đích thực chứ không phải chỉ là các tổ chức ngoại vi của chính quyền, được chính quyền sử dụng như những công cụ tập hợp quần chúng cho các mục tiêu chính trị của họ (4).
Thứ ba, ở cấp tổ chức, ngay cả khi xã hội dân sự đã lớn và mạnh, nó vẫn không đủ sức để biến một chế độ toàn trị thành một chế độ dân chủ. Một cuộc cách mạng như thế đòi hỏi rất nhiều yếu tố, từ quốc nội đến quốc ngoại, từ kinh tế đến chính trị, từ mức độ mâu thuẫn giữa dân chúng và nhà nước đến mức độ mâu thuẫn trong nội bộ giới cầm quyền. Nói theo Neera Chandhoke, “tất cả những gì xã hội dân sự làm được là cung cấp các diễn tố (actor) (5) với những giá trị, không gian và cảm hứng để đấu tranh cho dân chủ.” (6) Vậy thôi.
(Đây là bài thứ tư trong loạt bài về “Xã hội dân sự”. Kỳ tới: “Xã hội dân sự ở Việt Nam: một bức tranh lệch lạc và dang dở”)
***
Nguồn: http://www.voatiengviet.com/content/xa-hoi-dan-su-nhu-mot-tien-trinh-dan-chu-hoa/1588023.html
Chú thích:
1. Bài thuyết trình này được đăng trên trang web http://www.stanford.edu/~ldiamond/iraq/Develop_Democracy021002.htm không ghi tên tác giả. Tìm trên Internet, tôi thấy trong bài “Civil Society Role in the Democracy Building in Egypt .. Escaping from the Mess” của Mahmoud Ezzat có một phần mang nội dung hoàn toàn tương tự, từ ý tưởng đến câu chữ, mà không kèm theo bất cứ một ghi chú là đã trích dẫn từ đâu. Tuy nhiên, trong bài “Civil Society in Bosnia and Herzegovina: An Opportunity for a Genuine Democracy?” đăng trên The Journal of Turkish Weekly, tôi lại thấy, trong phần chú thích, tác giả của bài ấy chính là Larry Diamond. Tôi tạm theo tác giả bài báo này dù vẫn không thấy an tâm hẳn.
2. Katherine Verdery (1996), What was Socialism, and What Comes Next?, Princeton: Princeton University Press, tr. 105.
3. In trong cuốn Civil Society in Democratization do Peter Burnell & Peter Calvert biên tập (2004), London: Frank Cass, tr. 6-21.
4. Điều này đã được Russell J. Dalton và Như-Ngọc T. Ôn phân tích khá kỹ trong bài “Civil Society and Social Capital in Vietnam”. Có thể đọc trên:www.giga-hamburg.de/ifa/shop/pdf/mia385-Mutz-Inhalt.pdf
5. Tôi dịch “actor” là “diễn tố” thay vì “diễn viên” vì ở đây, khái niệm này bao hàm cả nhiều yếu tố khác chứ không hẳn chỉ có con người. Hơn nữa, chữ “diễn viên” trong tiếng Việt thường chỉ gợi liên tưởng đến phim và kịch, từ đó, tính chất giả tạo vốn không có cho chữ “actor”, ít nhất ở ngữ cảnh này.
6. Neera Chandhoke, “Civil Society”, Development and Practice, số 17 (tháng 8, 2007), tr. 613. * Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.