Trần Mạnh Hảo (Danlambao) - Đó là tập thơ: “Màu tự do của đất” của Trần Quang Qúy (NXB Hội Nhà Văn - không thấy đề năm xuất bản) được giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam (từ nay xin gọi là Hội Nhà Văn Hữu Thỉnh cho đúng nghĩa, vì khi gắn hai từ Việt Nam thiêng liêng này vào sau mấy chữ dung tục trên e xúc phạm người đọc chăng?), cùng với hai giải thưởng thơ cho hai tập thơ nước ốc khác của thày trò Thanh Thảo – Phạm Đương: “Trường ca chân đất” và “ Giờ thứ 25”.
Xin hãy nghe nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – phó chủ tịch Hội Nhà Văn Hữu Thỉnh, kiêm chủ soái trường thơ TÂN CON CÓC VIỆT NAM ca ngợi tập thơ nước cống này lên mây trong lễ trao giải thưởng văn học năm 2012 của Hội Nhà Văn Hữu Thỉnh:
”Màu tự do của đất đã cho ta thấy một Trần Quang Quý đa tầng, đa nghĩa, hơn, một Trần Quang Quý của những hình ảnh đẹp, mới lạ, sống động đầy tính biểu tượng. Cảm xúc đắm mê, trí tưởng tượng phong phú và tính triết lý sâu sắc đã làm lên giọng nói của nhà thơ.”
*
Trần Quang Quý |
NVTPHCM- Nhà thơ Trần Quang Quý vừa trình làng tập thơ mới Màu tự do của đất (NXB Hội Nhà văn). Vẫn mạch thơ của Giấc mơ hình chiếc thớt, Siêu thị mặt,… nhưng ở tập thơ thứ sáu này anh đã cố gắng vượt thoát áp lực nặng nề từ đời sống thực tại, để sống một đời sống tự do phiêu bồng trong cảm thức riêng mình.
Đời sống tự do ấy tinh khiết như đất trời buổi sớm mai, giúp trí tưởng tượng của thi sĩ có thể “hôn lên những nõn hoa vừa thức giấc sau cơn động dục đêm/rạo rực sinh quyển những tế bào phồn sinh” của tự nhiên. Một đời sống sáng tạo khác biệt trong “ngôn ngữ nóng cảm xúc” dâng tràn khát vọng “tắm gội những cái nhìn mồ côi, khắc khổ” trên trần gian này. - Phan Hoàng
Gọi sẻ
Hỡi sẻ, hỡi những con đường chạy dọc ấu thơ
những chiếc lông tiềm thức mọc lên đôi cánh mang ước mơ lộng lẫy bầu trời
bay lên những ban mai ứa đỏ
bầy sẻ nhỏ cắp mùa lên tổ
cắp giai điệu cánh đồng
Chiếc mỏ tí hon gắp những giọt sương, hơi thở của đêm ngưng giọt
chúng đan cả bầu trời, từng sợi bình minh, từng mũi chỉ hoàng hôn thành tổ ấm
hạnh phúc lót bằng đời rơm rạ
những mảnh hồn dân dã thắp lên cánh vỗ những chân trời
Ta gọi sẻ, gọi những mùa thơm hạt
nhớ mái hiên chiều mẹ ta sàng gạo
dưới tay Người rào rạo mắt thời gian
mẹ sàng cả tiếng chim, lăn líu ríu từng chùm lên mặt đất
cái tiếng chim nhỏ nhoi, ta thương sẻ loài chim không biết hót
cả một đời chiêm chiếp tiếng sẻ thôi
Nhà ta đây chim hãy về, như từng về tíu tít ngọn cau, rúc rích hiên chiều
ôi tiếng chim - một mái hiên ấu thơ ta trú ngụ
tiếng chim theo ta qua bao mùa khốn khó
đến bao giờ hỡi sẻ, hót lên?
Buổi sáng
Buổi sáng choàng dậy những tinh khiết của đất và trời
hôn lên những nõn hoa vừa thức giấc sau cơn động dục đêm
rạo rực sinh quyển những tế bào phồn sinh
buổi sáng cất đi tinh thể của bầu trời lấm tấm những hạt sao
chải tóc đêm
và ban mai mở van nạp dương khí
Buổi sáng vắt bầu ngực vũ trụ nhểu những giọt sương giải cứu khô cằn cỏ
rót tiếng chim vào lũng cảm những trái tim đang đóng ván tâm hồn
buổi sáng đi lợp lại những mái nhà mọt ruỗng nhân tâm
rì rào gọi búp non
thắp nhiệt ngày mới trên cơ thể hy vọng
Buổi sáng có thể ùa lên xanh rỗng bầu trời và bứt tỏa ánh sáng trùm mặt đất
tự cọ mình làm sạch ban mai bằng những khát vọng
thung thăng gót gió xanh
buổi sáng rì rầm đi vá lành những vết thương đêm
Có những điều giản dị
Tặng G & P
Được sống thật không dễ
nói thật dễ gì hơn?
Tôi lột vỏ ngôn ngữ
cùng đồng bào từ vựng của tôi tự do ùa xuống mặt đường
những bước chân ánh sáng
có con đường mở cả chân trời
có con đường chỉ quanh quẩn chân người
Phóng túng gì bằng được giải phóng lời khỏi những mật ngữ
hứng khởi gì bằng bóc vỏ tự do
nghe trái tim cuộn chảy dòng máu nhân sinh
nghe sự thật bong ra khỏi vai diễn
nghe cội rễ tự nhổ khỏi đất cằn những ngày nhạt
Ban mai
ba thằng bạn huyên thuyên cà phê sáng
quên bình minh biển lên cởi ngực Hải Phòng
Ru cỏ
Một ngày thật lạ, những phút giây kỳ lạ
anh vừa ngã vào lời ru cỏ
Em ru anh bên bờ cỏ xanh
ru những ngôi sao đêm đã vắt kiệt mình
chỉ còn những chiếc vỏ lép ánh sáng uể oải bò ngang bầu trời
ru những gót đêm nhẹ bấm châu thổ
ru mởn bờ non, ru dậy thì môi sữa
Cỏ nhìn ta dịu dàng hoan lạc lá
vuốt lên ta tấm nhung mềm của miền xanh cỏ
ta cong đêm ta xoắn lõm vào xuân
ta phì nhiêu
ta mây phiêu bồng
Em hãy giấu anh thật sâu vào lá, thật mềm trong nhựa
mùa xuân ghen tị, thì mở mắt ra mà xem cỏ hát
mà xem rễ ngọt từng chùm miên man
mà xem thiên nhiên phì nhiêu lộng lẫy
Em ru anh, ru anh cỏ xanh
Ru nửa cơn say rót đầy cơn gió
vị cay đã nếm, vị đắng đã nếm
vị ngọt cũng từng, ngàn hoang dã lá
đã đầy lên chưa vòm ngực mùa xuân
đã về sâu chưa này miền cỏ lạ
Ru cho chiếc rễ mọc vào thiên nhiên
cho nụ cỏ em
mọc anh một búp
7.2.2012
Hàng cơm nguội trầm tư đứng ngẩn phố hiện đại
chiều dậy thì khoả sương Tây Hồ
Cổ Ngư nhớ xưa, nằm se sắt bóng chiều hồn cẩu nhi phơ phất
phong phanh lá vàng thu cởi xuống xiêm y
tôi đi rỗng ngày buồn
nhặt vết nhân gian
rắc trên đường thu se sẽ gió
Trấn Quốc thỉnh một hồi chuông phúc lành
những con sóng vỗ tôi luỗng chiều
em lại về trong thực ảo mùa thu, trong ngọt ngào đắng đót
trong váy áo thanh xuân hừng hực qua đường
tôi muốn hôn lên bầu trời lơ lửng những cặp môi bay ngược quá khứ
những ký ức treo trên vòm lá, rằng mắt em đâu đó còn kia
Cổ Ngư
Cổ Ngư
Cổ Ngư
tiếng nấc những bàn chân còn thảng nhớ con đường
đi mải miết phía ngày không định
khóc trên vai tôi
xào xạc lá bàng rơi.
Thơ trong tập “Màu tự do của đất” - Trần Quang Quý
27-09-2012 01:11:54 PM VanVN.Net
Nhà thơ Trần Quang Quý sinh năm: 1955 tại làng Hạ Bì, xã Xuân Lộc, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ. Anh tốt nghiệp khóa II Trường Viết văn Nguyễn Du, trải qua nhiều năm làm báo với những thăng trầm nghề nghiệp, hiện anh đang công tác tại NXB Hội Nhà văn Việt Nam. Trần Quang Quý quan niệm: “Tác phẩm văn học chỉ có giá trị khi nó ở trong lòng bạn đọc. Con đường văn chương cực gian nan, dễ huyễn hoặc và phụ thuộc vào tài năng, sức lao động… mà nếu không thức ngộ được thì có khi cả cuộc đời chỉ là bản nháp.”. Miệt mài sáng tạo với một thái độ dấn thân, nhập cuộc quyết liệt, anh đã có nhiều tập thơ hay dành cho bạn đọc (trong đó có “Giấc mơ hình chiếc thớt” được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2004). “Màu tự do của đất” – tập thơ ra mắt bạn đọc quý II/2012 của Trần Quang Quý đã được nhiều bạn đọc đón nhận, cảm nhận và chia sẻ. VanVN.Net trân trọng giới thiệu 6 bài rút từ tập thơ này…
Mầu tự do của đất
Những ngọn khói cay mùi rơm rạ dắt tôi về cánh đồng lồng lộng sao đêm
tôi hít thở mầu tự do của đất
ngọn khói buộc thân phận nông dân vào cây cột tâm thức làng
và mái đình cong câu ngược tầm nhìn
những ngõ xóm ngủ hiền trên ngõ
mỗi buổi sáng một ban mai mọc trong họ tiếng hạt nảy mầm…
Còn vẳng lên bầy châu chấu bò quanh ký ức quê làng
nức thơm mùa hái gặt
củ khoai lùi bong ra cơn đói
dẫn ngược con đường in dấu vết thuở ông bà mở đất
những giần sàng gạn lấy nhân sinh
Liềm hái thèm ngày thôi gặt gió sương
người nông dân thèm tự do được giải phóng mình khỏi nhọc nhằn cơ bắp
và tự do đầu tiên lại là tự do không thoát ly bùn đất
tự do của mồ hôi
tự do neo đời mình vào cánh đồng sương gió
Trong trùng điệp bóng quê, trong trùng điệp gót người xa khuất
sợi tóc làng rụng xuống ca dao
áo rách áo lành bọc được bao nhiêu nhân nghĩa
chiếc áo làng tôi, chiếc áo đã vị bùn
ai cởi cho ta mùi khói cơm thơm?
26/10/2010
Đồng loại
- Tặng LTĐ -
Trong mắt rắn, dĩ nhiên rồi ta cũng loài rắn
ngôn ngữ của trườn bò
bóng tối phục binh trong bình minh nọc độc
quen lẩn khuất rập rình và tiến thân lươn lẹo
những già cỗi cũ mèm rồi có thể lột da
chỉ tính rắn không lột được cùng lốt rắn
Trong mắt bầy khuyển kia, làm sao khác ta cũng thành đồng loại
những cơn tru hoang (tiếng người hóa dại)
ngày thấp thỏm quạ kêu, đêm chập chờn cú rúc
những con mắt gài quanh bờ giậu
lách nhách cắn bóng đêm hay tự sủa phận mình
có cái chết trong bầm dập vết răng đồng loại
có bước chân côi cút lẻ bầy
Trong mắt chim ta cũng loài chim
cũng giống chim đi trên hai chân, nhưng khác chim người lại biết bò
và (nói nhỏ) thua chim không thể bay lên
suốt đời níu nhau mặt đất
Ta là ai? Câu hỏi đã xưa rồi
và điều đó chỉ riêng ta biết
ta là cả muôn loài, duy một điều khác biệt
ta vẫn phải suốt đời mang gương mặt là ta!
2/12/2006 – 23/2/2007
Sơn Tây
Này mây trắng Ba Vì gọi ngàn tuổi bay
này thành quách đá ong dẫn lối về phế hoang chiều cổ đại…
Tôi vào Sơn Tây bằng cổ thành xưa rỉ máu, bằng trung du cuộn đỏ
lúng liếng Xứ Đoài những nàng răng đen hạt nhót đang cười duyên
các nàng liếc tôi bằng sâu thẳm bầu trời thị giác
bằng cả những phía sau mi cong
Áo lụa dệt mềm mắt tôi, khăn nhung mỏ quạ buộc tôi bằng sợi xúc cảm
các nàng cổ nhân rồi. Tôi cứ sống thời các nàng mười tám tuổi
mê mẩn yếm đào cầu ao khoả gió
rúc ríc chợ quê, bánh tẻ thơm ngang vai trần sương nõn
tôi đi qua ngàn năm để đỏng đảnh một chiều váy ngắn
Tích Giang vỗ lõm bình minh thành cổ
nhoẻn miệng cười lúng liếng nhân gian
Tôi cưỡi mây trắng bay điệp điệp sông Hồng
bay phiêu du bằng dân dã hồn làng
có cánh diều làm nghiêng cả một vòm trời lãng mạn
có bầu trời tự do thúc ngựa hí những khát dâng trong ngực
có trái tim già dắt trái tim non đi vấp váp trên con đường nhân bản
nối đời này đời nọ gió lành Sơn Tây
Kìa mây kìa mây dẫn tôi non Tản, dẫn qua sông Đà, tôi về Thanh Thuỷ
sông ngàn tuổi đương giai
những triền bãi nằm dài liu riu ngủ sau mê mệt cường dâng mùa lũ
mía ngọt ngô lùi khói sương đơm nhớ
sông hổn hển kể ngày những nàng thôn nữ ra bến quê giặt yếm
khỏa những nụ cười duyên
giặt cái dịu dàng, giặt phồn thực
các nàng giặt tôi, kì cọ tôi bằng chiều quê cổ điển
bằng cổ tích Ba Vì, bằng cả bây giờ quần jean, tóc hấp
Tôi đi qua Sơn Tây, chưa qua hết những buổi chiều mây trắng
đá ong nằm rỗ mặt thời gian
có một vòm trời răng đen hạt nhót
mỉm tôi
môi chiều
Mộc Châu, 31/8/2010
Mặt ghế
Chiếc ghế mang ngôn ngữ một rừng cây
trăm năm rừng cây cùng cất giọng trong thẳm sâu vân gỗ
có cái đầu luôn khát tự do
lại có tự do tự gông cùm trên ghế
Tôi gặp đó đây những gương mặt mộng du quyền lực
những cái đầu nhỏ hơn vương miện
bài hát về tự do dài rộng thiên nhiên
thiên nhiên mãi tươi xanh
có giai điệu của trời, có tiếng gầm mãnh thú
chiếc ghế chứng nhân, một sàn diễn của vòng quay thế sự
Còn trên ghế những mặt đời sấp ngửa
những khao khát vang xa, những dòng sông lấp vùi quá khứ
những ngôn từ chưa mọc râu, những bào thai thời cuộc chết yểu
những thai nghén vô sinh, những thứ sinh đã vội lỗi mùa
sự vinh danh có thể ngắn hơn một đời cây
và nỗi buồn, có thể dài hơn sau đời ghế…
Tiếng ghế xô. Tiếng đại ngàn cuộn dâng mùa lũ!
một bóng cây đổ rỗng bóng rừng
thiên nhiên vẫn chảy trong từng thớ gỗ
lạ chưa kìa, mặt ghế hư vô…
6/3/2008
Mặt đất
Đất xa ta từ tầng sâu ý thức
và gần ta ngay dưới bàn chân
đất cùng ta mùa màng, đón ta về vô tận
Tôi thấy lớp lớp dấu chân xếp đầy thế gian
cao hơn mọi quả núi
những dấu chân thăm thẳm vô hình
xếp chặt cả những ngăn kí ức, những ngăn ảo ảnh
chúng bước tiếp vào trang sử còn đang viết dở, vào tương lai chưa kịp hình dung
Khi bước trên cánh đồng tôi sợ mình làm vỡ những giọt sương
có thể giọt sương kia là nước mắt của tổ tiên
những giọt từ tầng tầng siêu thoát
những giọt mồ hôi đắng mặn
gửi lại trên mỗi cánh hoa, mỗi ngọn cỏ non tơ
giọt của những kiếp người
chưng cất!
Khi tôi bước trên đường, có thể là một con đường nhỏ
cũng vời vợi bóng người
mỗi con đường đều có một số phận
và lịch sử con đường, máu tứa những bàn chân
Bạn có hình dung, chính gương mặt con người trải thành đất đai núi sông
mỗi bước đi xin nhớ nhỏ nhoi này
có thể bóng xưa đang quằn quại dưới bàn chân bạn
cũng có thể chỉ là vô nghĩa giọt sương
26/5/07 - 13/9/08
Tiếng đá
Có một chủng tộc đá túa ra bao vây chân người
có lời đá ngậm im miệng đá
chỉ gió trời hiểu được mang rì rầm đá cô đơn hát cùng mây ngàn
đá lặn vào những gương mặt như vừa nứt ra từ chính đá lầm lũi
đá cởi trần gồng núi
tua tủa bầu nên cao nguyên
Những đứa trẻ khóc tiếng đá. Cười khù khì đá
những con đường gồ ghề xồng xộc chạy ra từ nguyên thủy
con đường dài hơn mọi kiếp phận
đá nâng tôi ngàn thước, cõng tôi vào mây
gió rít ngàn ngựa hoang lồng Mã Pì Lèng
Nho Quế chảy rượu trời đổ cơn say vào thảng thốt tinh sương
rót bình men thiên nhiên kỳ vĩ
tôi ngấm những giọt người vắt ra từ đá
ngấm nỗi niềm nảy hạt
Những bàn chân phong phanh nhấc từng bước hy vọng
bàn chân đánh vần từng ký tự đá trên con dốc dài lởm chởm số phận
bấm vào tư duy im phắc
bấm vào hồn núi cao, vào vóc dáng đền đài thế kỷ
bấm vào huyết bào chủng tộc đá đã dựng lên vương quốc đá phì nhiêu
đánh thức tự do búp tủa lên trời
Vẳng điệu khèn cất lên trong miên man cỏ sương
điệu khèn cũng chắt ra từ tầng tầng rễ đá
chắt tiếng người rót giữa mơ xanh
Đồng Văn, 30/4/2011
Trên đây là 11 bài thơ được cho là “hay nhất”, “tiêu biểu” nhất do nhà thơ Phan Hoàng và trang web của Hội Nhà Văn Hữu Thỉnh trích ra từ tập thơ “Màu tự do của đất” của nhà thơ Trần Quang Qúy vừa được giải thưởng văn học năm 2012 của Hội nhà văn Hữu Thỉnh. Chúng tôi xin hỏi 8 vị trong hội đồng thơ và 9 vị trong ban chung khảo có tên dưới đây, 11 bài được gọi là thơ trên đây hay ở chỗ nào, tuyệt ở chỗ nào mà quý vị cho giải thưởng?
DANH SÁCH 8/9 THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG THƠ LÀM NHIỆM VỤ SƠ KHẢO:
1)- Nhà thơ BẰNG VIỆT
2)- Nhà thơ NGÔ THẾ OANH
3)- Nhà thơ INRASARA
4)- Nhà thơ ĐẶNG HUY GIANG
5)- Nhà thơ TRƯƠNG NAM HƯƠNG
6)- Nhà thơ THI HOÀNG
7)- Nhà thơ TUYẾT NGA
8)- Nhà thơ TRẦN QUANG QUÝ (không tham gia bỏ phiếu vì có tác phẩm dự giải)
9)- Nhà thơ NGUYỄN KHẮC THẠCH
DANH SÁCH 9 ỦY VIÊN BAN CHẤP HÀNH LÀM NHIỆM VỤ CHUNG KHẢO NĂM 2012:
1)- Nhà thơ Hữu Thỉnh
2)- Nhà văn Nguyễn Trí Huân
3)- Nhà LLPB Lê Quang Trang
4)- Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
5)- Nhà LLPB Phan Trọng Thưởng
6)- Nhà văn Đào Thắng
7)- Nhà văn Đình Kính
8)- Nhà thơ Văn Công Hùng
9)- Nhà văn Vũ Hồng
http://vanangiang.vnweblogs.com/post/22434/401382Theo quy định của Hội nhà văn Hữu Thỉnh, tập thơ xuất bản năm 2012 chỉ được xét trao giải thưởng cho năm 2013, để đầu năm 2014 công bố giải. Ở đây, trong trường hợp này, có sự gian dối lừa đảo của chính tác giả, của Hội Nhà Văn Hữu Thỉnh và nhà xuất bản Hội nhà văn. Trong tập thơ “ Màu tự do của đất” không hề in năm xuất bản, chỉ ghi do NXB Hội Nhà Văn …Nhưng trên website của Hội nhà văn: http://vanvn.net lại thấy ghi rằng: “Màu tự do của đất” tập thơ ra mắt quý 2/2012”. Như vậy, giải thưởng năm 2012 cho tập thơ này của Trần Quang Qúy đã phạm quy, phải thu hồi lại theo quy định của chính Hội nhà văn Hữu Thỉnh. Có thể, giải thưởng này là do tác giả “ chạy” chăng?
Riêng chúng tôi, tập thơ “ Màu tự do của đất” của Trần Quang Qúy, trước hết là một tập thơ dở và nhạt nhẽo hơn cả nước cống. Trong tập thơ này, tìm mãi cũng chỉ có hai câu thơ hay, xin trích:
“Đá ong nằm rỗ mặt thời gian”
(bài “Sơn Tây” trang 23)
Và câu:
“Những con đường gồ ghề xồng xộc chạy ra từ nguyên thủy”
(bài “Tiếng đá” trang 57)
Ngoài hai câu đáng gọi là thơ này, tập “Màu tự do của đất” nói chung toàn là những câu thơ trung bình, dở và thậm dở. Có thể nói, nếu tập thơ này mang tên tác giả là Nguyễn Quang Thiều mới đúng; vì Trần Quang Qúy làm thơ như là nhái thơ Nguyễn Quang Thiều, phó bản của Nguyễn Quang Thiều. Nếu Nguyễn Quang Thiều là giáo chủ của trường thơ TÂN CON CÓC VIỆT NAM thì Trần Quang Qúy đã trở thành phó giáo chủ của trường thơ nước cống này…
Tại sao chúng tôi gọi thơ của trường phái Tân con cóc của Nguyễn Quang Thiều và Trần Quang Qúy là thơ nước cống vì nó viết quá dễ dãi, quá nhạt nhẽo, viết lăng nhăng, lảm nhảm, thô tục, phi cảm xúc, phi hình ảnh, phi hình tượng, phi hàm súc, phi nội hàm, nói toẹt ra những câu nói thường nhật tào lao chi khươn, hoàn toàn phi truyền cảm, phi cấu tứ, phi tư tưởng, phi thơ…
Xin quý bạn đọc chiêm bái nàng thơ của Trần Quang Qúy:
“Lúng liếng xứ Đoài những nàng răng đen hạt nhót đang cười duyên”
…
“Có một vòm trời răng đen hạt nhót”
(bài: “Sơn Tây” trang 21, 23, 23)
Đây là câu thơ tả thực của Trần Quang Qúy. Nhà thơ này chắc chưa biết gì về quả nhót, nên viết bậy. Hạt nhót không hề đen. Hạt nhót nhỏ thì to bằng ngón tay cái, lớn thì to bằng ngón chân cái. Những nàng thơ Xứ Đoài “ răng đen hạt nhót” tức răng các nàng thơ này vừa đen vừa to như những ngón chân cái. Khiếp thay cho nàng thơ với những chiếc răng đen to bằng ngón chân cái, làm độc giả bình thường nhát gan như chúng tôi mới ngó qua đã bỏ chạy mất dép, chạy vãi …linh hồn. Với nàng thơ - con ma - con quỷ này của Trần Quang Qúy, thì chỉ có các ông Hữu Thỉnh, Lê Quang Trang, Nguyễn Quang Thiều là ba vị chủ tịch và phó chủ tịch Hội mới có gan và có đủ thẩm mỹ thi ca dám ôm hôn thắm thiết nàng thơ “răng đen hạt nhót” rồi tặng hoa, cho giải thưởng mà thôi…
Chúng tôi xin trích một số câu gọi là thơ tào lao chi khươn, nhảm nhí, thơ tấu hài dung tục bậy bạ của Trần Quang Qúy trích trong tập thơ toàn những câu nhạt nhẽo, dễ dãi, hơi bị mất vệ sinh kiểu như:
Với Trần Quang Qúy, tiềm thức cũng biết mọc lông:
“Những chiếc lông tiềm thức mọc lên đôi cánh mang ước mơ lộng lẫy bầu trời”
(bài “Gọi sẻ” trang 15)
Với Trần Quang Qúy, những nõn hoa đêm cũng dâm đãng, ngứa nghề:
“Hôn lên những nõn hoa vừa thức giấc sau cơn động dục đêm”
(bài “ Buổi sáng” trang 19)
Với Trần Quang Qúy, ngôn từ cũng biết cách mọc râu:
“Những ngôn từ chưa mọc râu, những bào thai thời cuộc chết yểu”
(bài “ Mặt ghế” trang 30)
Với Trần Quang Qúy, lịch sử cũng có răng, mà răng cũng nghiến ken két ghê hồn:
“Tiếng ghiến răng lịch sử”
(bài “Chiếc gươm trong bảo tang trang 31)
Với Trần Quang Qúy, đụn cát cũng mắc bệnh phụ khoa:
“Những đụn cát lết trong cơn nhọc nhằn thổ huyết trắng”
(bài “Thắp” trang 53)
Với Trần Quang Qúy, ý nghĩ cũng biết cởi truồng:
“Khỏa thân ý nghĩ cánh buồm”
(bài “Biển” trang 74)
Với Trần Quang Qúy, trực giác cũng biết mọc lông như trai gái đến tuổi cập kê:
“Mơn mởn những chiếc lông trực giác”
(bài “Bầu trời phi lý thuyết” trang 78)
Với Trần Quang Qúy, chiếc đinh cũng biết khóc ré lên trẻ ăn phải lửa:
“Giờ chỉ sự im lặng nghe được tiếng khóc của chiếc đinh”
(bài “ Chiếc đinh” trang 82,83)
Với Trần Quang Qúy sự nhạt nhẽo cũng biết tắm truồng dưới trăng:
“Hôm qua tôi bất ngờ gặp sự nhạt đang tắm truồng với trăng”
(bài “ Tốc ký về sự nhạt” trang 85 - hóa ra sự nhạt nhẽo cũng đẹp ghê đấy chứ?)
Maiacopxki, nhà thơ Nga trước năm 1917 có tập thơ “ những đám mây mặc quần”, nghe còn có lý…Trần Quang Qúy vượt lên Maiacopxki, khi ông cho chiếc lưỡi trong miệng người ta cũng biết mặc quần như ai:
“Chiếc lưỡi mặc quần trễ rốn”
Cứ đà này, thơ Trần Quang Qúy sẽ còn cho chiếc răng biết mặc váy, con mắt biết mặc sì-líp, cái tai biết mang ca-pốt... cũng nên...
Lối thơ dễ dãi nhạt nhẽo vô phương cứu chữa này của Trần Quang Qúy, Nguyễn Quang Thiều …chính là miếng đất làm ăn của những kẻ bất tài đang tìm cơ hội nhảy ra ám sát văn đàn bằng các GIẢI THƯỞNG ĐỂU (như nhiều giải thưởng xằng bậy mấy năm nay Hội nhà văn Hữu Thỉnh đã trao), nhằm phá hoại nền văn học nước nhà, nằm trong kế hoạch lâu dài của bọn bành trướng Bắc Kinh là xâm lược Việt Nam toàn diện từ văn học, phim ảnh, chính trị, văn hóa đến xâm lược đất đai, biển đảo quê hương ta theo ý đồ cướp nước của cha ông chúng từ Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đến Mao, Đặng, Hồ, Tập ngày nay...
Sài Gòn ngày 21-02-2013