Nguyên Thạch (Danlambao) - Những tưởng rằng với hố sâu tội lỗi, Nguyễn Tấn Dũng có thể hối cải để đổi công chuộc tội. Nhưng không, ông không làm gì cả, ngay cả với việc tự cứu ông. Ông không thể làm được những việc rất cần thiết này vì ông hoàn toàn không có bản lãnh hay Trời đã định phận ông phải là như vậy?. Câu hỏi này còn chưa ngã ngũ nhưng chuyện: Có vay có trả là định luật. Ông đã mắc nợ quá nhiều thì tới ngày ông phải trả, đó là lẽ đương nhiên. Sẽ không ai thương tiếc, không ai đoái hoài cho cái chết vô tích sự của những tên bất tài vô tâm, mà hôm nay tôi có thể khẳng định rằng ngày bài viết này được tung ra công chúng cũng là ngày để đánh dấu khoảng thời gian mà Nguyễn Tấn Dũng đã chết lâm sàng.
*
Một số đông người Việt đã có căn cứ (cơ sở) để mong đợi những sự đổi mới cho Việt Nam trong bối cảnh mà một người ở trong vị thế như ông Nguyễn Tấn Dũng có thể vận hành sự ủng hộ chung quanh cùng quyền thế của đã có của ông để xoay chiều vận nước theo hướng thuận lợi mà hầu hết dân chúng mong đợi.
Sự ủng hộ (cho dẫu rất miễn cưỡng), vì hiện tại ở Việt Nam dưới một cơ chế độc tài độc đảng, tụ tập cả một bầy đàn u mê và bảo thủ, xét ra không còn ai khá hơn cũng như không còn bất cứ lựa chọn nào khác để các định chế quốc tế, các chính quyền liên hệ cùng một số người Việt ở nước ngoài lẫn số đông người Việt ở trong nước trông cậy, đặt niềm tin với hy vọng ông sẽ là một trong những nhân tố để có thể thay đổi cục diện đã và đang rất là bế tắc và nguy ngập về nhiều phương diện mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế.
1- Bình diện quốc gia: Con đường chính trị mà đất nước này đã và đang theo đuổi cho dẫu biết rằng đây là một con đường đầy hoang tưởng mà điểm đến của con đường sẽ không bao giờ có đích nhưng vì quyền lợi của nhiều cá nhân lãnh đạo và sự tồn vong của đảng CSVN nên nhóm lợi ích này chẳng những khẳng định lập trường Chù Nghĩa Xã Hội và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam, mà họ còn cương quyết giữ vững chủ thuyết Mác-Lê trong tương lai cho dẫu vẫn biết rằng tương lai sẽ không bao giờ đến như lời nhận định của ông đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng đã nói rằng: "Đến hết thế kỷ này cũng không biết Việt Nam đã có CNXH hoàn chỉnh hay chưa?".
Hãy lấy mốc thời gian là năm đáng ghi nhớ 1975, một nửa của đất nước này vào lúc ấy đã có thể ở vị thế ngang hàng với Singapore, Nam Hàn (Hàn quốc), Đài Loan, Mã Lai và vượt hẳn cả Thái Lan, Philippine, Miên, Lào, Indonesia (Nam Dương) và ngay cả Trung cộng. Sau 40 năm dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng CSVN mà đảng này luôn ca ngợi là sáng suốt và siêu việt đã đưa đất nước đến nghèo nàn, tụt hậu mà giờ đây Việt Nam không thể so sánh với bất cứ quốc gia nào ở Đông Nam Á và Á châu. Việt Nam hôm nay đã được liệt kê ở cuối bảng xếp hạng các quốc gia của khu vực này và các định chế kinh tế thế giới cho rằng "Việt Nam là một quốc gia không chịu phát triển!".
Hệ quả của sự tụt hậu đó có nguyên nhân từ đâu?. Không cần phải thông minh cho lắm thì người ta vẫn trả lời câu hỏi đó một cách dễ dàng và khá chính xác rằng là vì Cộng Sản. Với một guồng máy cồng kềnh tắc trách vô trách nhiệm từ số đông của cán bộ công nhân viên nhà nước, kèm theo với sự lãng phí, trình độ kém và đứng đầu là nạn ăn cắp của công và ngân quỹ quốc gia, nạn tham nhũng và bao che tham nhũng đã làm kiệt quệ ngân sách. Bên cạnh nguyên nhân gây nên sự kiệt quệ từ phía nhà nước là sự chi tiêu vô lý, không cần thiết cho hệ thống đảng phái chính trị. Đảng CSVN đã ưu tiên cho việc chi phí riêng của đảng như xây dựng các cơ sở làm việc của đảng ủy các cấp các nơi một cách vô cùng "hoành tráng", có những dinh thự vốn đã đủ tiện ích nhưng đảng đã cho phép đập phá để xây dựng lại uy nghi hơn, để có dịp ăn phần trăm hơn!. Thêm nữa, đảng đã lạm dụng tiền thuế của quốc gia để chi trả cho những chuyện đáng ra chỉ là việc riêng của đảng như chi phí hội họp, hội nghị... trả tiền lương, tiền trợ cấp cho hơn 4 triệu đảng viên, một con số khổng lồ và gây thất thiệt không ít từ ngân sách.
Thứ đến là chi phí khổng lồ cho Côn an, một tổ chức được xem là "lá chắn" để bảo vệ chế độ mà sự nghịch lý trắng trợn của tổ chức này là không nhằm mục đích bảo vệ dân hay nói một cách khác là dân trả số lượng tiền lớn để côn an ĐÀN ÁP CHÍNH MÌNH.
Chi phí cho Quân đội và An ninh quốc gia được xem là chi phí cần thiết cho bất cứ nước nào nhưng riêng Việt Nam thì người dân cảm thấy vô cùng bất bình khi lượng tiền lớn của quốc dân chi phí cho việc mua sắn vũ khí hiện đại như tàu ngầm, máy bay, hỏa tiễn... ưu tiên sử dụng những khu vực "đất vàng" cho quân đội nhưng khi giặc ngoại bang xâm chiếm biển đảo, đất liền, di dời cột mốc biên giới thì quân đội lại cúi đầu, im hơi lặng tiếng để giặc cướp tự tung tự tác và thậm chí còn cấm cản không cho phép quân đội chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc!
Đá Chữ Thập có diện tích 960.000 m2, tính đến ngày 21/10/2014. Ngoài đường băng, trên hòn đảo nhân tạo này còn có cảng biển đủ lớn để đón tàu tiếp tế, tàu chiến đấu cỡ lớn, nhiều nhà máy xi măng, cơ sở hỗ trợ, cầu cảng, súng phòng không, hệ thống chống người nhái, trang thiết bị liên lạc, nhà kính, bãi đáp trực thăng. Ảnh: CSIS/AMTI.
Phần đất cải tạo trên đảo được mở rộng đáng kể từ tháng 7/2014. Nơi này hiện có kênh tiếp cận, cầu cảng, các thiết bị thông tin liên lạc, radar, đê chắn sóng gia cố, bãi đáp trực thăng, cơ sở quận sự và có thể xây một đường băng dài 3.000 m. Ảnh: AMTI/Digital Globe.Chú thích của vnexpress
Trung Quốc đặt các dàn phóng Tên lửa phòng không tại đảo Phú Lâm trên quần đảo Hoàng Sa
2- Bình diện quốc tế: Biển Đông, nếu dựa vào chứng tích của lịch sử và căn cứ vào CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982 VÀ PHÂN ĐỊNH CÁC VÙNG BIỂN TRÊN BIỂN ĐÔNG (UNCLOS) (1) thì phần lớn Biển Đông và các đảo của nó nằm trong 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trực thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam. Thế nhưng Trung cộng đã ngang ngược tự mình hoạch định và tuyên bố Đường phân khúc 9 đoạn tức "Đường lưỡi bò" tung ra thế giới và hung hăng chiếm cướp 7 đảo của Việt Nam: Châu Viên, Đá Chữ Thập (với đường bay dài hơn 3km), Đá Gaven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Vành Khăn và Đá Subi (2) trước sự cúi đầu im lặng của Việt Nam, không phản kháng thỏa đáng bằng hành động quân sự cụ thể và cũng không dám ngay cả việc đưa Trung cộng vi phạm Công ước quốc tế ra trước tòa án quốc tế như quốc gia lân bang đã làm là Philippine, cũng như không dám chính thức nhờ vả Hoa Kỳ cùng các quốc gia đồng minh ủng hộ, giúp đỡ cũng như không mở rộng Dân Chủ Nhân Quyền để toàn dân có tiếng nói nhằm lên tiếng bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ lãnh hải cho Việt Nam. Sự thể này đã gây nên sự tức giận của dân chúng trong ngoài nước, cũng như sự ngao ngán của quốc tế khiến những cái nhìn đầy khinh bỉ đến những tên cầm quyền của đảng và nhà nước Việt Nam đã có thái độ rất hèn mạt và ngu muội vì đã bị Tàu cộng dụ dỗ và điều khiển.
Trung cộng đã ngông cuồng thách thức Việt Nam, Philippine, Brunei, Malaysia, Đài Loan và ngay cả cộng đồng thế giới bằng hành động xây dựng các căn cứ quân sự kiên cố và các sân bay hiện đại cũng như lắp đặt các hệ thống chứa hỏa tiễn tầm ngắn, tầm xa có mang đầu đạn nguyên tử và dần dần tuyên bố chủ quyền bất khả xâm phạm Biển Đông của Trung cộng và ngăn cấm lưu thông hàng hải trên khu vực này.
Trở lại vấn đề Nguyễn Tấn Dũng, dưới một cơ chế độc tài toàn trị không có đảng đối lập, không có tự do báo chí, mọi tiếng nói, mọi phản kháng của người dân đều bị dập tắt từ trong trứng nước thì không có bất cứ tổ chức nào có thể đứng ra hành động ngoại trừ những người đang nắm quyền lực trong thể chế ấy. Trong hoàn cảnh không có lựa chọn như vậy, nhiều người đã có lý do khi đặt sự trông vọng vào cá nhân quyền lực như Nguyễn Tấn Dũng cùng phe nhóm của ông muốn có những sự thay đổi hoặc tiệm tiến, hoặc nhanh chóng tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cho phép. Ông Dũng đã có nhiều thời cơ khả thi cũng như có được nhiều cơ hội thuận lợi khi ông đang còn sở hữu nhiều quyền hành cũng như cầm nắm được lợi thế từ sự ủng hộ của dân chúng cũng như các chính quyền trên thế giới có khả năng giúp để thay đổi tình thế của Việt Nam mà cụ thể là Hoa Kỳ về mặt nổi và Nhật, Úc về mặt ngấm ngầm nhưng ông đã không thức thời, không đủ trình độ để nhận thức và can đảm hành động. Ngoài trình độ học thức hạn hữu của một y tá lớp ba trường làng, ông Dũng cũng không có được cái gan của người hùng dám tận dụng thời cơ để tạo nên thời thế mà nhiều người mong đợi. Nguyễn Tấn Dũng không hề mang cái hùng của Trí Nhân mà ông chỉ là một tên gian hùng bá láp.
Đáng lẽ bài này sẽ được viết ngay sau kết quả đại hội đảng toàn quốc XII với sự thất bại của Nguyễn Tấn Dũng cùng sự nhục nhã mà ông đã gánh lấy nhưng người viết lại "phạm thêm lỗi lầm" nữa là hy vọng sự biến đổi nào đó ở Hội Nghị Thượng Đỉnh Hoa Kỳ - ASEAN tại Sunnlands ngày 15/ 2/ 2016. Cuối cùng cho thấy sự mong chờ ấy là một con số không to tướng sau khi hội nghị Hoa Kỳ-ASEAN kết thúc.
Quả vậy, tác giả cũng như những người có đặt chút hy vọng để viết lời giới thiệu "Hãy chọn lựa cái ít tệ hại nhất" cho bài viết "Mũi thuyền xé sóng – Mũi Cà Mau" của tác giả Trần Hồng Tâm đăng tải trên trang mạng Đàn Chim Việt và được trích đăng lại trên Quan Làm Báo cũng như bài "Nếu phải chọn thì chọn mất tiền hay mất nước?" đã được đăng trên Quan Làm Báo và Dân Làm Báo của Nguyên Thạch là những sai lầm mang tính khách quan. Đồng thời người viết bài này cũng không ngần ngại để công nhận rằng những người với chủ trương dứt khoát "Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm" là đúng đắn. Bài học ĐỪNG BAO GIỜ TIN CỘNG SẢN càng nên phải được thuộc lòng, Tác giả thành thật xin lỗi bạn đọc cho dẫu cái lỗi là kỳ vọng cho sự thay đổi của thể chế hầu đất nước sớm thoát khỏi lầm than, độc tài toàn trị... cái lỗi ấy xét ra cũng rất đáng thương.
Trong một cơ chế mà mọi quyền hành, mọi chủ trương, chính sách đều giao cho đảng, không đối lập, không Tam quyền phạn lập, Đệ tứ quyền Tự do ngôn luận hoàn toàn vắng bóng thì chuyện lạm quyền để tự tạo uy thế, tiền bạc, độc tài độc đoán để đưa ra những quyết định (dẫu quyết định sai lầm) thì không phải là khó mấy. Cho nên dưới thể chế độc tài này, động thái cửa quyền, hối lộ, tham nhũng... không phải là chuyện khó thực hiện, bằng chứng là tham nhũng ở Việt Nam đã trở nên bất trị do nguyên nhân là vì CƠ CHẾ. Bởi vậy, trong suốt thời gian cầm nắm quyền hạn, giới lãnh đạo đã được cơ chế tạo cơ hội để được cung kính, tâng bốc và làm giàu, cho dẫu là làm giàu một cách phi pháp, bởi một lẽ dễ hiểu là cơ chế đã cho phép đảng nằm trên và ngoài vòng pháp luật.
Cơ chế đã ưu ái cho những người bất tài và thất học nhưng có "bề dày" về tham gia "Cách mạng" như Nguyễn Tấn Dũng, từ những sự ưu ái này cộng thêm đầu óc tánh và tình ma mãnh của đương sự, Nguyễn Tấn Dũng đã chóng vánh tiến thân và lợi dụng quyền thế của hắn để làm giàu một cách cực kỳ nhanh chóng. Với chức vụ Thủ tướng của một quốc gia có 90 triệu công dân quốc nội lẫn trên 4 triệu rưỡi người Việt ở hải ngoại cùng lượng kiều hối được gởi về nước trung bình 12-14.000.000.000 USD mỗi năm. Những tố giác về tham nhũng như Vinashin, Vinalines, Ngân hàng... mà bản thân ông được danh xưng là TRÙM cùng biết bao nhiêu phi vụ tham nhũng khủng khác chưa được liệt kê cũng như những chung chi khủng dưới dạng cá nhân một cách cực kỳ tinh vi thì sẽ đoán được Nguyễn Tấn Dũng là trùm tham nhũng cỡ nào.
Như đã trình bày ở trên, cơ chế đã khẳng định sự độc tài ở điều 4 Hiếp Pháp: "Đảng CSVN là cơ quan duy nhất lãnh đạo toàn diện và triệt để", điều này đã cho phép đảng trên pháp luật và ngoài vòng pháp luật mà ai cũng hiểu rất rõ rằng "chẳng lẽ đảng xử phạt đảng và bỏ tù đảng?" cho nên mọi vi phạm rồi sẽ được "cứt trâu để lâu hóa bùn" và chìm xuồng. Dưới một định chế bao che và đồng lõa như vậy thì bất cứ người đảng viên lãnh đạo nào cũng có thể tư tung tự tác và làm giàu một cách dễ dàng mà ví dụ điển hình nhất là sĩ quan CSGT. Sự giàu có mà không cần phải thông minh, phải học hành, phải vất vả, miễn có lý lịch theo tiêu chuẩn của đảng cùng bề dày, phải biết chối bỏ đạo đức, quên đi tinh thần trách nhiệm, dồn tâm trí về việc đếm tiền là được. Người nào càng có cá tánh gian xảo, ba xạo như Ba Dũng thì sự giàu có càng nhanh chóng hơn.
Những tưởng rằng với hố sâu tội lỗi, Nguyễn Tấn Dũng có thể hối cải để đổi công chuộc tội. Nhưng không, ông không làm gì cả, ngay cả với việc tự cứu ông. Ông không thể làm được những việc rất cần thiết này vì ông hoàn toàn không có bản lãnh hay Trời đã định phận ông phải là như vậy?. Câu hỏi này còn chưa ngã ngũ nhưng chuyện: Có vay có trả là định luật. Ông đã mắc nợ quá nhiều thì tới ngày ông phải trả đó là lẽ đương nhiên. Sẽ không ai thương tiếc, không ai đoái hoài cho cái chết vô tích sự của những tên bất tài vô tâm, mà hôm nay tôi có thể khẳng định rằng ngày bài viết này được tung ra công chúng cũng là ngày để đánh dấu khoảng thời gian mà Nguyễn Tấn Dũng đã chết lâm sàng.
Bản thân ông Dũng đã bị giới hạn về trình độ và nhận thức, đã thế những cố vấn cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng không đủ thông minh và cảm nhận cũng như dự đoán những gì sẽ xảy ra xung quanh. Ông không dám đứng mũi chịu sào thì cũng sẽ có người cùng toàn dân hợp sức lại thể hiện tinh thần và hành động cứu nước khi cơ hội đến. Tàu cộng sẽ bị Hoa Kỳ và nhiều nước tiên tiến trên thế giới bao vây về nhiều mặt mà trong đó kinh tế và sức mạnh của quân sự sẽ xé nát Trung cộng ra thành nhiều mảnh. Khi cái nôi thứ hai và ông chủ của Việt cộng sụp đổ thì thử hỏi đảng CSVN còn lý do gì để tồn tại?. Hỏi tức trả lời. Cho nên những đảng viên và lực lượng Quân đội nên nhanh chóng thức tỉnh trước khi quá muộn.
Điều bất hạnh nhất đối với một con người là sống nhưng đã đánh mất niềm tin từ những người chung quanh. Sự bất hạnh đó sẽ là nỗi nhục cho Nguyễn Tấn Dũng vì dẫu sao ông cũng đã từng là vị Thủ tướng của một quốc gia. Chuỗi ngày sắp đến, ông có thể còn nhiều tiền, ông có thể bị những kẻ khác giựt lấy nhưng điều chắc chắn là ông sẽ không còn tư cách. Chuỗi ngày còn lại có thể ông sẽ giữ được mạng mà xin tỵ nạn ở Pháp, ở Thụy Sĩ hay bất cứ nơi đâu chịu dung túng ông, hoặc ông có thể bị mất mạng như thân phận của một con chó xà mâu mà người ta muốn trừ khử xa lánh. Bản thân ông, ông chết, ông sống?. Mặc ông, nhưng với công chúng Nguyễn Tấn Dũng thật sự đã chết.
__________________________________________
Chú thích: