(Viết nhân 10 năm ngày mất của thi sĩ Hữu Loan)
Đỗ Trường Trường (Danlambao) - Thế hệ tôi ở miền Bắc trước 1975, dường như rất ít người biết đến nhà thơ Hữu Loan. Bởi, thơ ông không được in ấn, nhắc nhở đến. Nếu không có văn học, âm nhạc miền Nam, và sự cởi trói cho các văn nghệ sỹ vào những năm cuối của thập niên tám mươi, thì thơ văn, cũng như con người Hữu Loan vẫn còn nằm đó, hóa thạch với thời gian. Hữu Loan viết không nhiều. Và cùng Trần Dần, Lê Đạt... ông là người tiên phong trong việc cách tân thơ Việt ngay từ những ngày đầu kháng chiến. Do vậy, tính mộc mạc, dân dã trong thơ Hữu Loan đã được mọi tầng lớp người đọc yêu mến, đón nhận. Song giống như các nhà thơ cùng thời, không phải bài thơ nào của Hữu Loan cũng đạt được những điều mong muốn. Tuy nhiên có thể nói, Hữu Loan là một trong những linh hồn và nhà thơ có sức sống lâu dài nhất của thi ca kháng chiến (ở giai đoạn 1946-1954).
Đi sâu vào nghiên cứu, ta có thể thấy, Đèo Cả và Màu Tím Hoa Sim là hai bài thơ hay, và tiêu biểu nhất cho sự nghiệp sáng tạo của Hữu Loan. Cùng tính chân thực, nhưng nếu Đèo Cả đậm chất hào sảng, phóng khoáng, thì Màu Tím Hoa Sim mang nặng chất trữ tình, bi thương của người lính. Ngoài ra, sự mâu thuẫn trong tư tưởng, trong thi ca của ông cũng là những vấn đề được đặt ra.
Lật lại văn học sử kháng chiến, thấy một điều lý thú. Bởi, cùng năm 1946, hai tú tài, người Thanh Hóa, ở mặt trận Tuy Hòa, chung một cảm xúc, đã cho ra đời hai thi phẩm rất mới lạ về cả nội dung, lẫn thi pháp nghệ thuật. Nó như một luồng gió mới, thổi vào thơ ca gà gật của ngày đầu kháng chiến vậy. Đó là Trần Mai Ninh với Nhớ Máu, và Hữu Loan với Đèo Cả. Tuy nhiên, hai bài thơ có số phận hoàn toàn khác nhau. Nếu Nhớ Máu lạnh tanh, với những câu thơ ằng ặc máu, đọc lên phải dựng tóc gáy, được đưa vào giảng dạy nơi học đường, thì Đèo Cả kể từ sau 1956 đã hóa đá cùng Hữu Loan.
Có thể nói, Hữu Loan đến với thi ca khá muộn, bằng bài thơ đầu tay Đèo Cả, ở cái tuổi ba mươi. Ngay từ bài thơ đầu, ông đã bộc rõ tài năng với lối cách tân độc đáo, và đã mở ra một con đường thơ riêng của mình. Cùng giọng điệu mới, với từ ngữ dân dã, (khẩu ngữ) những câu thơ bậc thang, Hữu Loan đã làm cho nhịp thơ dứt khoát, nhất là khi miêu tả, bộc lộ cảm xúc, rung động có tính đa chiều. Vâng, và cái cảm hứng lãng mạn, với khuynh hướng sử thi ấy, làm cho Đèo Cả mang đậm nét bi tráng, nhưng cũng rất đỗi tĩnh tại:
“Biệt nhau
rừng hoang canh gà
Râu ngược
chào nhau
bên vách núi...
Sau mỗi lần thắng
Những người trấn Đèo Cả
Về bên suối
Đánh cờ
Người hái cam rừng
Ăn nheo mắt
Người vá áo
Thiếu kim
Mài sắt
Người đập mảnh chai
Vểnh cằm
Cạo râu...”.
Dù viết về chiến tranh, nhưng tính nhân bản, tình đồng đội xuyên suốt trang thơ Hữu Loan. Cái hào sảng, can trường của người lính trong Đèo Cả, đọc lên tưởng chừng đâu đó phảng phất bóng hình, hồn vía của những tráng sĩ, người lính trong dân ca, ca dao, hay trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn vậy. Có thể nói, cùng với đoàn quân, người lính không mọc tóc trong Tây Tiến của Quang Dũng, người lính tóc râu trùm vai rộng trong Đèo Cả của Hữu Loan là hình tượng độc đáo nhất của văn học sử Việt Nam. Và nó cũng là những bài thơ hay nhất, hào khí, và bi tráng nhất về người lính của thi ca kháng chiến (1946-1954):
“Dưới cây bên suối độc
cheo leo chòi canh
như biên cương
tóc râu trùm
vai rộng
Không nhận ra người làng
rau khe
cơm vắt
áo phai màu chiến trường
ngày thâu
vượn hú
đêm canh gặp hùm
lang thang
Gian nguy
lòng không nhụt”.
Núi bia cao ngất, mù sương, một khung cảnh chết, song chỉ với hình ảnh một cái quán, hay một chòi nghỉ chân dọc đường, tác giả điểm lên đó một sự sống, một câu thơ sống. Nó như một bức tranh ký họa sinh động, giàu hình tượng (khái quát) về sự rùng rợn, và khốc liệt ở nơi chiến trường vậy:
“Đèo cả!
Đèo cả!
núi cao ngất
mây trời Ai Lao
sầu đại dương
dặm về heo hút
Đá bia mù sương
Bên quán Hồng Quân
người
ngựa
mỏi
nhìn dốc
ngồi than
thương
ai
lên
đường!...”
Phải nói, Màu tím hoa sim là một trong những bài thơ được nhiều người yêu mến nhất, bởi cái tính chân thật. Cả bài thơ như một lời tự sự, hay một tiếng bi ai về cái chết của người vợ trẻ hậu phương của người lính nơi trận tiền. Không phải chỉ có Màu tím hoa sim, mà sau này, những Khúc Thụy Du của Du Tử Lê, hay Khúc Tình Buồn, Cô Bắc Ky Nho Nhỏ của Nguyễn Tất Nhiên, đều được viết ra từ cảm xúc về những mối tình thực của mình. Do vậy, nó gây nhiều hứng cảm đi sâu vào lòng người đọc một cách sâu sắc. Từ cảm xúc chân thực như vậy, cùng khẩu ngữ giàu nhạc tính rất dễ lay động người nhạc sỹ khi chuyển thành ca khúc. Thật vậy, những câu chuyện tình sử ấy, đều trở thành những giai thoại dưới nét nhạc của Phạm Duy, Anh Bằng, hay Duy Khánh... khắc sâu trong lòng người vậy.
Tuy nhiên, với tôi, Màu tím hoa sim không phải là bài thơ hay nhất của Hữu Loan. Nhưng nó là một trong những bài thơ tình bi đát hay, và chân thật nhất của người lính, kể từ khi có thơ mới cho đến nay:
“...Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
---
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
---
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt...”
Đi sâu vào đọc, và nghiên cứu, ta có thể thấy, Hữu Loan có sự mâu thuẫn khá sâu sắc về tư tưởng cũng như trong thơ văn. Bởi, trước khi về quê thồ đá, ông có đến ít nhất là ba bài tụng ca, được viết vào khoảng những năm 1955-1956. Một thứ đại kỵ với thơ ca đích thực. Nó hoàn toàn trái ngược với nhân cách, con người cũng như thơ ca Hữu Loan trước và sau đó. Với tôi, cái sự mâu thuẫn này của ông quả thực khó lý giải. Được biết, ở thời gian đó Hữu Loan có tham gia đội Cải cách ruộng đất. Chắc chắn ông là người chứng kiến và hiểu rất rõ về nó. Nhưng bài như Chờ Đội Về, không những ông đã viết ngược lại với những hiện thực ấy, mà còn cổ xúy cho cuộc chiếm đoạt, đấu tố long trời lở đất này. Bài tụng ca này, được Hữu Loan viết và in vào tháng 2-1956 trên báo Văn. Vâng, đọc nó ta có thể hiểu thêm rằng, dù cách tân hay với hình thức nghệ thuật nào đi chăng nữa, dạng những bài này của tác giả Màu Tím Hoa Sim chỉ dừng lại ở mức vè không vần mà thôi:
“- Ai đã về quê tôi?
Nước sông Hồng
Quanh năm
Chảy mật
Ruộng hai mùa
Mông mênh biển vàng
Nhưng bần cố nông
Vẫn là những kẻ
Mất thiên đường
Lang thang
Trong hỏa ngục.
Vải ấm Đảng cho
Bần cố nông
Không được mặc
Gạo no Đảng cho
Bần cố nông
Không được ăn
Địa chủ
và tay chân
Đem bán chia nhau...”
Khó hiểu, và bất ngờ hơn nữa, trong cùng một thời điểm Hữu Loan viết bài ngợi ca: Chế Độ Ta, khác hẳn với sự châm biếm, đả kích ở bài: Cũng Những Thằng Nịnh Hót. Sự mâu thuẫn, nhức nhối này, làm cho người đọc một cảm giác “Cây gỗ vuông chành chạnh” Hữu Loan, dường như còn một khuôn mặt khác nữa:
“...Chế độ ta
Đến đâu
Mặt trời theo
Đến đấy
Chế độ ta
Đã dạy
Cho mặt trời
Công bình...
Chế độ ta
Không còn hành khất
Không còn người ăn sương
Nhân loại cần lao
Lớp lớp
Lên đường
Mặc áo muôn màu
Hát muôn thứ tiếng
Tay nắm tay thân mến
“Ta giữ hòa bình
Cho chế độ ta đây...”
Có thể nói, Hữu Loan có cái nhìn méo mó về Hà Nội và Sài Gòn, cũng như cuộc di cư của hơn một triệu đồng bào miền Bắc (sau 1954), khi ông viết bài Đêm vào tháng 5/1956. Quả thực, dưới cái tư tưởng, quan điểm phiến diện như vậy của Hữu Loan, Hà Nội trước kia, và Sài Gòn hôm nay (1956), hiện lên trong thơ như một thứ ung nhọt, giang mai cùng mã tấu. Sự đĩ điếm, bỉ ổi ấy, càng rõ nét hơn dưới phép so sánh của ông: “Đêm Hà Nội/ Ngày nay/ Như em nhỏ nằm tròn/ Ru trong nôi chế độ”. Cái khía cạnh này, trong thơ Hữu Loan, dường như ít được các nhà nghiên cứu, và phê bình nhắc đến:
“...Hốt hoảng gọi nhau
Không kịp vớ áo quần
Những đêm Hà Nội ngày xưa
Lõa lồ
Mình đầy ung độc
Đã xuống tàu đêm
Vào Sài Gòn
Tất cả
Những đêm Sài Gòn
Ngày nay
Đêm giang mai
Tẩu mã
Đang mưng
Cấp cứu gấp vạn lần
Những đêm xưa Hà Nội
“10$ 1 cốc cà-phê
100$ 1 con gái...”
Quảng cáo đóng đầy
Ngực đêm
Như áo ngủ Sài Gòn
Đêm Hà Nội
Ngày nay
Như em nhỏ nằm tròn
Ru trong nôi chế độ
Những đèn dài đại lộ
Như những tràng hoa đêm
Nở long lanh
Trong giấc ngủ
Bình yên”.
Sau 1954, những thi sĩ, nhà văn cùng thời như, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, hay Nguyễn Tuân... đều phải đảo bút, úp mặt quay lưng vì cuộc sống là điều dễ hiểu. Song với Hữu Loan một nhà thơ thẳng thắn, và can trường là một điều thật khó lý giải. Do vậy, cần lắm một sự nghiên cứu của các bậc tiền bối từ trong nước ra đến hải ngoại, để làm sáng tỏ một cách chân thật nhất về nhà thơ tái năng, đáng kính Hữu Loan.
(Một số dẫn chứng của bài viết, trích từ những bài thơ sưu tầm của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân - Xin cảm ơn ông).
Leipzig ngày 4-3-2020