Le Nguyen (danlambao) - Trong thời gian dài, từ ngấm ngầm lấn đất, lấn biển đến hung hăng xâm phạm lãnh hải trong khu vực thuộc đặc quyền kinh tế, cắt cáp thăm dò địa chất của tàu Bình Minh 2, Viking 2 của Việt Nam, Trung Cộng không còn ẩn núp dưới chiếc bóng “trổi dậy hòa bình”. Chúng đã lộ bản chất bá quyền nước lớn, coi khinh luật pháp quốc tế, cứ khăng khăng đòi chủ quyền chữ U chín đoạn tự vẽ, chiếm gần như toàn bộ biển Đông.
Bên cạnh biến động biển Đông là diễn đàn an ninh Á Châu, Shangri- La, ở Singapoer; hội thảo Chết Dưới Tay Trung Quốc (Death by China) ở Irvine, Hoa Kỳ; hội nghị An Ninh Hàng Hải Biển Đông (Marintime Security in the South China Sea) do trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế tổ chức, ở Washington DC, Hoa Kỳ. Cả ba sự kiện quốc tế này thu hút sự quan tâm của nhiều chính khách, học giả tham dự trực tiếp hoặc qua các phương truyền thông khắp nơi trên thế giới. Trong các hội nghị quốc tế này, có nhiều phát biểu của các chính khách, học giả thuận lợi cho việc tái xác lập chủ quyền lãnh hải Việt Nam trên biển Đông, tạo dư luận đồng thuận ủng hộ lẽ phải, chính nghĩa của Việt Nam trên trường quốc tế. Chưa có thời điểm nào tốt hơn, thuận lợi hơn cho Việt Nam trong quá trình tranh chấp biển đảo với Trung Cộng. Đúng ra không phải Việt Nam “tranh chấp” mà là chống lại hành động ăn cướp trắng trợn của Trung Cộng.
Thế nhưng trong lúc đang diễn ra nhiều diễn biến thuận lợi cho Việt Nam về mặt dư luận quốc tế thì quan chức Việt Nam lại có những động thái hèn nhược đến mức khó hiểu? Lần lượt là bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh đón tiếp Đại Sứ sắp mãn nhiệm - “thái thú” Tôn Quốc Tường, kẻ đã từng ngạo mạn mắng mỏ quan chức Việt Nam ngay giữa thủ đô Hà Nội: “hợp tác cùng có lợi, đấu tranh là thất bại.”
Thật sự, không biết dùng từ ngữ nào thích hợp để nói về lời phát biểu và hành động của ông Phùng Quang Thanh. Dù sao ông cũng là bộ trưởng quốc phòng của một nước mà khúm núm trước mặt “đồng chí đại sứ nước bạn” nhưng thực sự là kẻ xâm lăng rằng: “...Việt Nam luôn coi trọng quan hệ đoàn kết, hữu nghị, đối tác hợp tác chiến lươc toàn diện với Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, đều kiên định sự lãnh đạo của đảng cộng sản và là hai nước xã hội chủ nghĩa có nhiều điểm tương đồng. Việt Nam mãi mãi biết ơn sự giúp đỡ quý báu của Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam trong những năm qua...”. Thật không còn nhục nhã nào hơn!
Xin lỗi ông Thanh, nếu ông thấy đảng cộng sản Việt Nam của ông, cần mãi mãi biết ơn Đảng cộng sản Trung Hoa thì ông cứ xoa tay, lắp bắp nói cám ơn, xin đừng thay mặt nhân dân Việt Nam vì nguời dân Việt Nam không dám nhận sự giúp đỡ quý báu của Trung Cộng theo cách đưa súng đạn: “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng.” như ông Mao Trạch Động đã nói và làm!
Tiếp theo bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh là thứ trưởng ngoại giao Hồ Xuân Sơn cũng đã có những lời tuyên bố sặc mùi bưng bô kiểu tôi tớ: “...khẳng định Việt Nam luôn coi trọng quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc theo phương châm 16 chữ vàng 4 tốt. Việt Nam sẽ nổ lực cùng Trung Quốc thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa hai nước ngày càng thiết thực, hiệu quả hơn vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ổn định, hợp tác của khu vực và thế giới..”
Chẳng biết trước khi phát ngôn linh tinh như thế, ông thứ trưởng Hồ Xuân Sơn có được suy nghĩ độc lập hay đã được cài đặt “thảo chương” sẵn chỉ cần bấm nút là tự phát ra? Dù thế nào đi nữa, dù bị đinh hướng hay cài đặt, thì ngôn ngữ “... Việt Nam luôn coi trọng quan hệ đối tác...nổ lực...thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa hai nước...” không nên có với nhà cầm quyền Bắc Kinh bởi vì TQ chẳng có coi trọng, thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa hai nước mà chỉ tự phát từ một phía năn nỉ, xin xỏ coi trọng quan hệ của Việt Nam!
Thử hỏi trong quan hệ ngoại giao quốc tế thời hiện đại, ông bộ trưởng quốc phòng, ông thứ trưởng ngoại giao có cần phải van xin hợp tác, hứa hẹn sẽ thực hiện... và nhún nhường quá mức cần thiết như thế không? Không cần tỏ thái độ chống đối, manh động đáp trả những phát ngôn ngông cuồng, hiếu chiến của đám quan chức ngoại giao, quân sự của Trung Cộng nhưng ít ra cũng phải cho họ biết Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền chứ không phải là một nước tay sai hay chư hầu của Trung Cộng!
Tại sao, tttại sao... tttttttttại sao??? Có phải đảng cộng sản Việt Nam đã đạt được thỏa thuận, đồng thuận hay mật ước của cái được gọi là, nhận thức chung của lãnh đạo hai nước. Thậm chí hiệp ước bán nước cho Trung Cộng?
Có nhiều bàn tán làm xôn xao dư luận xã hội, về công hàm của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, được nhiều người dân phẩn nộ gọi là “công hàm bán nước,” công nhận chủ quyền lãnh hải 12 hải lý do nhà nước Trung Cộng tuyên bố năm 1958, khiến Việt Nam phải kẹt trong thế yếu khi tranh chấp chủ quyển biển đảo với Trung Quốc trong hiện tại.
Thật ra công hàm mà ông Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi cho đồng nhiệm ông Thủ Tướng Chu Ân Lai mang tính thủ tục ngoại giao hơn là giá trị pháp lý và nội dung cũng không có gì rõ ràng về chủ quyền biển đảo. Mặt khác, trong thời điểm đó, chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa thuộc nước Việt Nam Cộng Hòa, ở miền Nam, chứ không phải của nướcViệt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc, ông Phạm Văn Đồng lấy chi trao đổi, sang nhượng!? Về công hàm của ông Phạm Văn Đồng đã được nhiều trí thức, học giả trong ngoài nước kiến giải, biện luận dẫn chứng tư liệu lịch sử cách khoa học, về chủ quyền rất thuyết phục. Thế thì không có gì phải ngại tranh biện với đối tác Trung Cộng về biển Đông. Vậy mà nhà nước Việt Nam lại không có hành động nào gọi là... đối với Trung Cộng hay biểu lộ cho các nước khắp nơi trên thế giới thấy Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền như ông Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết rất tự tin thể hiện Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền trong hội nghị quốc tế khi gặp nguyên thủ quốc gia Hoa Kỳ Barack Obama!?
Gần đây trong dư luận có nói đến một tài liệu tuyệt mật do tổ chức Wikileaks công bố liên quan đến Việt Nam. Đó là biên bản cuộc mật đàm của hai đảng cộng sản anh em Việt-Trung vào ngày 03 và 04/09/1990 tại Thành Đô, Trung Quốc, gồm các ông Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh, Chủ Tịch hội đồng bộ trưởng ông Đỗ Mười với ông Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân, Thủ Tướng Lý Bằng?
Có lẽ, chính biên bản của hiệp ước bí mật Thành Đô này mà đảng cộng sản Việt Nam đã có những hành động khó hiểu, bạc nhược hơn mức cần thiết và Trung Cộng cứ nhắc đi nhắc lại “yêu cầu Việt Nam thực hiện nhận thức chung, thoả thuận chung đã đạt được giữa hai đảng, hai nhà nước” nhưng Trung Cộng cứ úp mở, mập mờ không nói ra thoả thuận gì, giữa hai đảng cộng sản Trung-Việt ?
Từ thông tin đó, xâu chuổi lại những sự kiện xảy ra trong nhiều năm qua, nào là dự án khai thác Bauxite Tây Nguyên, cho thuê rừng đầu nguồn. Các dự án kinh tế quan trọng gồm xây dựng các loại nhà máy công nghiệp đều vào tay nhà thầu Trung Quốc. Các nguyên vật liệu phụ trợ để làm thành phẩm tiêu thụ trong nước lẫn xuất khẩu phần lớn nhập khẩu từ Trung Quốc. Ngay cả phim ảnh phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí, văn hóa giáo dục, Trung Quốc cũng chiếm tỷ lệ áp đảo, tràn ngập các kênh truyền hình Việt Nam, nhất là Việt Nam rập khuôn mô hình chính trị, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc...nói chung, tất cả sức mạnh quốc phòng cốt lỏi đã bị đảng cộng sản Việt Nam bỏ ngõ.
Điểm qua các sự kiện vừa nêu, đến người dân bình thường cũng nhận thấy âm mưu thực hiện quyền lực mềm, lấn dần qua hình thức thâu tóm đầu não chính trị, kinh tế, văn hóa của Trung Cộng. Thế mà cộng sản Việt Nam, tự nhận là đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội vẫn không có động thái ngăn chận hiểm hoạ Trung Quốc! Có phải hành động không hành động của đảng cộng sản Việt Nam là một hình thức dọn đường, là cách giải quyết các bước cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc và để biến Việt Nam thành khu tự trị trực thuộc chính quyền trung ương Bắc Kinh?
Dù thế nào đi nữa, dù có công hàm của ông Phạm Văn Đồng hoặc có hay không có mật ước xin hưởng quy chế khu tự trị trực thuộc Bắc Kinh, đã đến lúc cộng sản Việt Nam phải công khai các hiệp ước ký kết với Trung Cộng cho toàn dân được biết để cùng nhau tìm ra đối sách thích hợp, bởi đất nước này không phải của riêng của đảng cộng sản Việt Nam nên đảng cộng sản không được quyền trao đổi, sang nhượng cho bất cứ ai. Đất nước Việt Nam là của toàn dân Việt Nam chỉ có dân tộc Việt Nam mới có quyền quyết định vận mệnh đất nước này.
Đảng cộng sản Việt Nam phạm phải nhiều sai lầm nghiêm trọng trong đó có sai lầm trong quan hệ Việt –Trung, kể từ thời ông Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng đến ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười sang ông Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và lớp lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam đương thời là lớp nhận lãnh hậu quả nghiêm trọng tồn tại của lịch sử do đảng cộng sản thế hệ trước để lại.
Dù biết thế, nguy cơ mất nước đã cận kề, chung tay cứu nước, bảo vệ độc lập toàn vẹn lãnh thổ là nhu cầu cấp bách cần phải đặt lên ưu tiên hàng đầu. Đây không phải là lúc chê trách, đổ lỗi cho nhau, cho hệ quả sai lầm lịch sử còn tồn tại từ quá khứ mà hãy cùng nhau góp công sức, tài lực, trí tuệ dựng lại trang sử mới cho dân tộc, đất nước Việt nam nhằm ngăn chận nguy cơ ngoại thuộc và thiết lập thể chế chính trị có khả năng mang đến cơ hội, bình đẳng, công bằng, bác ái cho con cháu muôn đời sau.