Tanyth Lawless (bạn đọc danlambao) - Người Trung Quốc và Việt Nam từ nhỏ đến lớn bị cưỡng chế truyền bá lý luận chủ nghĩa Marx, gọi là triết học Marx-Lenin – bác bỏ sự tồn tại của thần linh (vô thần luận) và tôn thờ vật chất. Tuy nhiên bản thân chúng ta lại không hề chân chính hiểu rõ Marx. Trong viện nghiên cứu Marx ở Nga có hơn 100 đầu sách do Marx viết, tuy nhiên chỉ có 13 quyển được xuất bản. Marx viết nhiều như vậy, rốt cuộc là về điều gì? Vì sao không cho xuất bản? Muốn giấu giếm điều gì đây?
Gần đây, xem thấy trên mạng lưu truyền một số bài viết về Marx và Sa-tăng giáo, tôi đã tìm được mấy cuốn sách tiếng Anh nói về sinh hoạt và công tác của Marx [1,2], nhờ đó mới biết bình sinh không để nhiều người biết của Marx.
Ngày 5 tháng 5 năm 1818, Marx sinh ra trong một gia đình luật sư người Do Thái giàu có. Khi Marx lên 6 tuổi, gia đình ông ta quy y Cơ Đốc giáo. Thời trẻ Marx là một giáo đồ Cơ Đốc và tín ngưỡng Thượng Đế. Sau khi tốt nghiệp trung học, thành tích của Marx rất tốt và tất cả đều xem ra bình thường. Cha Marx cũng đặt kỳ vọng rất lớn vào ông ta.
Tuy nhiên trong thời gian học đại học, tính cách Marx biến đổi lớn, trong tâm đầy rẫy thù hận và cuồng vọng tự đại, khiến cha mẹ ông ta trở nên bất an và đau khổ.
Với sự giàu có của gia đình, trong thời gian Marx học đại học, cha Marx đã cấp cho ông ta rất nhiều tiền để tiêu xài [3]. Tuy nhiên Marx và Jenny (Jenny von Westphalen) đã bí mật đính hôn (gia cảnh Jenny tốt hơn Marx, người vừa cao vừa xinh xắn, là đối tượng theo đuổi của nhiều chàng trai). Chiếu theo lý thường, cuộc đời Marx lúc này lẽ ra nên theo chiều hướng tích cực. Vậy vì sao Marx bỗng chốc trở nên đầy thù hận? Nguyên là sau khi vào đại học, Marx đã gia nhập giáo hội Sa-tăng (Satanist Church) do Joanna Southcott chủ trì [2] (người tự xưng là có giao tế với ma quỷ Shiloh), và trở thành một thành viên của giáo phái ma quỷ.
Theo tôn giáo Tây phương giảng, Sa-tăng là thiên sứ sa ngã (fallen angel), từ đó trở thành ma quỷ, chứa đầy thù hận và tật đố với Thượng Đế (God). Giáo hội Sa-tăng tuyên truyền thù hận đối với Thượng Đế, đồng thời cũng đầy thù hận đối với nhân loại (bởi vì Thượng Đế đã sáng tạo ra loài người).
Giai đoạn đầu học đại học, Marx dự định học tập thơ ca và hí kịch. Từ một số bài thơ và kịch bản mà ông ta viết, người ta có thể thấy sự thù hận của Marx đối với Thần và nhân loại. Ví như trong bài thơ “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair) biểu đạt sự tuyệt vọng của bản thân, Marx viết: “Ta không còn lại gì ngoài thù hận!” (Nothing but revenge is left to me!), “Ta sẽ dựng ngai của ta ở trên trời cao, Lạnh lẽo và kinh khiếp làm sao khi ở trên đỉnh, Cho bức tường thành của sự mê tín khủng khiếp, Sự thống khổ đen tối nhất cho kẻ ngồi trên…” (I shall build my throne high overhead, Cold, tremendous shall its summit be. For its bulwark– superstitious dread, For its Marshall–blackest agony.) Trong bài thơ này, tác giả đã bày tỏ tâm tư: Mơ ước trở thành Đại vương Khủng bố để hủy diệt cả thế giới. Marx còn thích lặp lại câu nói của ác ma Mephistopheles: “Hết thảy những gì tồn tại đều nên bị hủy diệt”. Trong bài thơ “Sự kiêu ngạo của con người” (Human Pride), Marx viết: “Rồi ta sẽ quăng đôi găng tay sắt lên, Khinh bỉ trước khuôn mặt mở rộng của thế giới, Dưới người lùn khổng lồ khóc thút thít, Lao xuống, nhưng không thể diệt niềm hạnh phúc của ta. Giống như Thượng Đế mà ta dám làm, Xuyên qua vương quốc hoang tàn trong khải hoàn, Mỗi lời nói là chiến công và ngọn lửa, Và ngực ta sẽ giống của Đấng Tạo Hóa.” (Then the gauntlet do I fling, Scornful in the World’s wide open face. Down the giant She-Dwarf, whimpering, Plunges, cannot crush my happiness. Like unto a God I dare, Through that ruined realm in triumph roam. Every word is Deed and Fire, And my bosom like the Maker’s own.) Tác giả bài thơ này đã có được khoái cảm từ việc hủy diệt thế giới, mức độ thù hận và cuồng vọng có thể thấy được từ đó.
Mikhail Bakunin (một người Nga theo chủ nghĩa vô chính phủ, cùng Marx sáng lập “quốc tế thứ nhất”, cũng là một giáo đồ Sa-tăng), người từng có thời là bạn thân của Marx, viết: “Người ta nhất định phải sùng bái Marx. Người ta ít nhất cũng phải sợ ông ta để có được sự khoan dung của ông ta. Marx là người tự đại cực độ, tự đại đến mức ghê tởm và điên cuồng”.
Có một điểm cần phải chỉ rõ ở đây, đó là thành viên giáo hội Sa-tăng không phải là người theo chủ nghĩa duy vật; họ không chỉ không vô thần, mà còn tin rằng có sự sống sau khi chết. Tín đồ Sa-tăng giáo tin vào sự tồn tại của Thần, chỉ là họ thù hận Thần, muốn vượt qua Thần, leo lên trên cả Thần (ít nhất là ngồi ngang hàng với Thần). Ví dụ trong kịch bản “Oulanem” nói về quan hệ giữa mình và Sa-tăng giáo (“Oulanem” là một danh xưng nghi thức tôn giáo của Sa-tăng, “Oulanem is a ritualistic name for Satan [2]“), Marx không phủ nhận sự sống sau khi chết, mà cho rằng sự sống sau khi chết chứa đầy thù hận với Đấng Tối Cao. Trong vở kịch này, tác giả đã bán linh hồn mình cho ma quỷ [1].
Sau khi Marx chết không lâu, người hầu gái cũ của Marx là Helen Demuth nói: “Ông ta (Marx) là một người rất kính sợ thần. Khi mắc trọng bệnh, ông ta một mình trong căn phòng, đầu cuốn dây băng và cầu khấn trước ngọn nến đang cháy”. Theo phân tích, nghi thức cầu khấn của Marx không phải là của Do Thái giáo (cũng không phải của Cơ Đốc giáo), mà rất có thể là một loại nghi thức ma quỷ bí mật nào đó của Sa-tăng giáo. Thực sự Marx không phải là một người vô thần.
Tháng 3 năm 1854, người con trai Edgar của Marx đã xưng hô như sau trong câu mở đầu bức thư gửi cha mình: “Ác quỷ thân ái của con (My dear devil)”. Bởi vì giáo đồ Sa-tăng giáo chính là gọi người mình thương yêu như vậy, liệu có thể là trùng hợp chăng? Không chỉ có vậy, người con rể yêu quý Edward Eveling của Marx cũng là một tín đồ Sa-tăng. Người bạn thâm giao Proudhon (nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa người Pháp) của Marx cũng sùng bái Sa-tăng như vậy. Nhà thơ Đức nổi tiếng Heinrich Heine, một người bạn thân khác của Marx, cũng là một người sùng bái Sa-tăng, hơn nữa trong thơ còn công khai ca ngợi Sa-tăng, nói Sa-tăng “là một người đàn ông, khả ái mê ly”.
Mặc dù Marx công khai bày tỏ sự thù hận đối với chủ nghĩa tư bản trong các tác phẩm của mình, nhưng ông ta lại đầu cơ cổ phiếu vào thị trường Luân Đôn và thua một lượng lớn tiền. Lúc may mắn thắng được, tháng 6 năm 1864, Marx viết trong bức thư gửi người chú Leon Phillips rằng ông ta thắng được 400 bảng Anh trên thị trường cổ phiếu [2].
Marx được trợ giúp một lượng lớn tiền từ Engels, nhưng rõ ràng là vẫn không thỏa mãn. Khi một người bác vợ 90 tuổi sắp chết, Marx viết như sau trong bức thư gửi Engels: “Nếu như con chó già (old dog) đó chết, thì tôi không ngại gì nữa”. Engels phúc đáp như sau: “Chúc mừng ông, chướng ngại đối với di sản kế thừa của ông mắc bệnh rồi, tôi hy vọng ông ta vạ đến nơi rồi”. Sau khi cụ già 90 tuổi mà Marx gọi là “con chó già” qua đời, Marx lại viết: “Đây là một việc mừng. … Nếu không phải con chó già đó đem một đống của giao cho bà chủ giữ nhà, thì vợ tôi còn có thể được nhiều hơn”.
Marx và Engels đều là phần tử trí thức cao cấp, thế nhưng người ta phát hiện rằng, thư từ qua lại giữa họ đầy rẫy những từ ngữ hạ lưu thấp hèn. Ngoại trừ một lượng lớn ngôn từ dâm ô ra, giữa họ không hề có bất cứ bức thư nào trao đổi về niềm mơ ước chủ nghĩa xã hội nhân đạo.
Giờ lại xem thái độ của Marx đối với mẹ và vợ mình. Tháng 12 năm 1863, Marx viết trong bức thư gửi Engels: “Hai giờ trước, tôi đã nhận được một bức điện báo, nói mẹ tôi đã chết rồi. … dưới rất nhiều tình huống, điều mà tôi cần không phải là một người đàn bà già đó, mà là những cái khác. Tôi nhất định phải lên đường đến Trier để tiếp thu di sản (ghi chú của người viết: Trier là nơi Marx sinh ra).” Điều mà Marx quan tâm chỉ là di sản mà thôi. Ngoài ra, quan hệ giữa Marx và người vợ Jenny là không tốt, bà đã hai lần ly thân ông ta, nhưng sau đó lại trở về. Khi Jenny chết, Marx thậm chí còn không tham dự lễ tang.
Marx không bao giờ thực hiện nghĩa vụ nuôi gia đình; bất chấp mình có đủ tiền, Marx vẫn dựa vào Engels để sinh hoạt. Marx và vợ sinh được sáu người con, trong đó ba người chết vì thiếu dinh dưỡng, còn hai người con gái và một con rể thì tự sát (người con gái Eleanor từng nói khi Engels sắp chết rằng cô suy sụp khi biết Marx có con riêng và sau đó tự sát) [2]. Marx còn nát rượu nghiêm trọng [1].
Marx đối với người thân của chính mình còn tuyệt tình như vậy, đối với người khác thì có thể tưởng tượng được. Ai cũng biết Marx là người Do Thái, nhưng ông ta lại căm thù người Do Thái, còn viết riêng một cuốn sách bài Do Thái, gọi là “Về vấn đề Do Thái” (On the Jewish Question). Ông ta thù hận người Đức, người Trung Quốc, miệt thị: “Người Đức, người Trung Quốc, người Do Thái đều là kẻ bán hàng rong”. Ông ta gọi người Nga là “bị cơm”, gọi người Xla-vơ là “nhân chủng cặn bã”, là chủng tộc “phản động”, và nên bị hủy diệt trong cơn bão táp cách mạng thế giới.
Trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” và các cuốn sách khác, Marx tuyên bố phấn đấu vì giai cấp vô sản, thế nhưng lại gọi giai cấp vô sản là “ngu xuẩn, lưu manh, khó ngửi”, còn gọi người da đen là “đần độn”, thậm chí ủng hộ chế độ nô lệ ở Bắc Mỹ…
Ngày 9 tháng 1 năm 1960, tờ báo Đức “Reichsruf” đã tiết lộ một vụ bê bối lớn: Thủ tướng Áo Raabe đã từng bí mật gửi lãnh đạo Khrushchev của Liên Xô một phong thư gốc của Marx. Trong thư đã chứng thực Marx từng là một kẻ mật báo lĩnh thưởng của cảnh sát Áo, ông ta từng là gián điệp trong đội ngũ cách mạng lưu vong tại Luân Đôn. Mỗi lần cung cấp một tin tức, Marx nhận được 25 đồng tiền thưởng. Phạm vi mật báo của Marx liên quan đến những người cách mạng lưu vong tại Luân Đôn, Paris và Thụy Sỹ [1].
Marx chết ngày 14 tháng 3 năm 1883, và được mai táng tại nghĩa trang Highgate (Highgate Cemetary) ở Luân Đôn, với chỉ 6 người tham dự tang lễ. Thế nhưng nghĩa trang Highgate này là trung tâm sùng bái Sa-tăng ở Luân Đôn, rất nhiều nghi thức đen tối sùng bái ma quỷ đã được cử hành tại nghĩa trang này.
Sự thực đã chứng tỏ rõ Marx là một tín đồ Sa-tăng giáo. Tất nhiên Marx không dám thừa nhận, và để che đậy, ông ta mới nói dối mình là người vô thần. Marx vận dụng thuần thục các mánh khóe của Sa-tăng — bịa đặt và lừa dối. Ở một góc độ khác, Marx là giáo chủ của đảng cộng sản, dùng vô thần luận, duy vật luận để che đậy diện mạo thật sự của ma giáo cộng sản, để mong đạt được mục đích hủy diệt tâm linh của nhân loại.
Mở đầu “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, Marx viết: “Một bóng ma, bóng ma chủ nghĩa cộng sản đang làm run sợ lục địa Châu Âu”. Không ít người cảm thấy nghi hoặc về đoạn này. Hiện tại chúng ta đã minh bạch rồi, “bóng ma chủ nghĩa cộng sản” này kỳ thực là Sa-tăng trong tâm Karl Marx. “Cửu bình cộng sản đảng” đã nói rõ điều này cho mọi người, gọi là “tà linh cộng sản”.
Marx đối với nhân loại không hề có yêu thương, mà chỉ có thù hận. Hơn 100 năm qua, chủ nghĩa cộng sản thực tiễn thực hiện giấc mộng của tín đồ Sa-tăng Marx đã đem đến cho nhân loại tai ương và thống khổ lớn phi thường. May có “Cửu bình cộng sản đảng” khiến ngày càng nhiều người Trung Quốc thức tỉnh, thoái xuất đảng, đoàn, đội của Trung Cộng, thoát khỏi khống chế của Sa-tăng, từ đó được tân sinh.
Tham khảo tư liệu:
[1] Von Richard Wurmbrand, Marx and Satan (Marx và Sa-tăng), Living Sacrifice Book Co (December 1986).
[2] David Allen Rivera, Final Warning: A History of the New World Order, Conspiracy (February 2004). Chương 6: Khởi nguyên của chủ nghĩa cộng sản.
[3] Rolv Heuer trong cuốn sách “Thiên tài và phú ông” đã giới thiệu khi Marx học đại học Berlin, cha Marx cấp cho Marx mỗi năm 700 đồng bạc tiền tiêu vặt. Đây là một con số rất lớn, bởi vì thời bấy giờ, chỉ 5% người có thu nhập hơn 300 đồng bạc/năm.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
“Con đường thành ma của Karl Marx” (trích bộ phận quan trọng)
(Trích đoạn)
Trong bài thơ “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair), Marx viết:
Thượng Đế đã lấy đi của ta tất cả,
Trong sự nguyền rủa và tra tấn của định mệnh.
Tất cả thế giới đã ra đi không trở lại!
Ta không còn lại gì ngoài thù hận!
Ta sẽ dựng ngai của ta ở trên trời cao,
Lạnh lẽo và kinh khiếp làm sao khi ở trên đỉnh,
Cho bức tường thành của sự mê tín khủng khiếp,
Sự thống khổ đen tối nhất cho kẻ ngồi trên.
Kẻ nhìn vào nó với đôi mắt khỏe mạnh,
Sẽ trở thành xanh đen như chết và câm lặng;
Chiếm cứ bởi sự mù quáng và lạnh lẽo của tử vong,
Có lẽ niềm hạnh phúc sẽ chuẩn bị phần mộ cho hắn.
Toàn văn bản tiếng Anh bài thơ có thể được tra cứu tại:
(Trích đoạn)
Vào thời học sinh, Marx đã viết một kịch bản, có lẽ là đáp án. Kịch bản này tên gọi là “Oulanem”. Để hiểu được đầu đề này thì phải biết sự việc như sau:
Sa-tăng giáo có một loại nghi thức tế lễ gọi là “tụ hội đen tối”. Trong nghi thức này, thầy tế của Sa-tăng giáo tiến hành tụng niệm vào lúc nửa đêm. Cây nến màu đen bị đảo ngược và đặt lên giá cắm nến, trong khi thầy tế mặc ngược áo trường bào, nhìn vào cuốn sách cầu nguyện và tụng niệm, nhưng thứ tự niệm là hoàn toàn đảo lại, bao gồm thánh danh của Thần, Chúa Jesus, và Đức Mẹ Maria, đều đảo lại để niệm. Một cây thập tự giá được treo ngược hoặc bị giẫm ở dưới chân; một vật thâu trộm thánh khí của giáo đường được khắc tên của Sa-tăng, dùng để trao đổi giả. Trong “tụ hội đen tối” này, một bộ Thánh Kinh sẽ bị thiêu hủy. Tất cả những người có mặt sẽ phát thệ phạm vào bảy tội tổ tông trong giáo nghĩa của Thiên Chúa giáo, đồng thời thề vĩnh viễn không làm việc tốt. Sau đó, họ sẽ tiến hành túng dục cuồng hoan.
“Oulanem” chính là đem Thánh danh “Emmanuel” ra viết bậy bạ. “Emmanuel” là một tên của Chúa Jesus trong Thánh Kinh, theo tiếng Hebrew thì có nghĩa là “Thần đồng tại với chúng ta”. Phép thuật hắc ám cho rằng loại đảo ngược này là hữu hiệu.
Tác phẩm “Oulanem” của Marx có thể tra cứu trên mạng Marxist:
Dù sao đây cũng chỉ là màn kịch đầu tiên (Act I), nội dung đằng sau vẫn còn chưa đưa lên mạng, tại sao vậy?
(Trích đoạn)
Để lý giải kịch bản “Oulanem”, chúng ta nhất định phải dựa vào một màn tự bạch kỳ dị của Marx. Trong bài thơ “Người diễn tấu” (The Fiddler), Marx viết:
Sao vậy! Ta lao xuống, lao xuống mà không trượt
Thanh kiếm đen máu của ta đâm vào tâm hồn ngươi.
Thượng Đế khéo léo kia không muốn hay là quản,
Nó nhảy vào não từ đám sương đen của địa ngục.
Tới khi trái tim mê mẩn, tới khi cảm xúc dâng trào:
Ta đã bán mình cho ma quỷ Sa-tăng.
Ngài viết các ký hiệu, bấm thời gian cho ta,
Ta chơi khúc quân hành Thần Chết nhanh và rảnh.
Đoạn này càng thể hiện rõ hơn nữa, Marx đã thừa nhận mình có khế ước với Sa-tăng. (Người viết bổ sung thêm: Marx đã thừa nhận “Sa-tăng cấp cho ông ta một thanh kiếm, lại cấp ấn ký cho ông ta” [1])
Bản tiếng Anh tác phẩm “Người diễn tấu” (The Fiddler) của Marx có thể được tham chiếu tại:
Những câu này mang theo một hàm nghĩa đặc thù: Trong nghi lễ thăng cấp của Sa-tăng giáo, để thực hiện thuật phù thủy, một thanh kiếm sẽ được bán cho người thăng cấp. Còn kẻ thăng cấp trả tiền và dùng máu của mình để ký tên trên khế ước với ác ma; sau đó, khi người này chết, linh hồn anh ta sẽ thuộc về Sa-tăng.
Dưới đây là trích dẫn kịch bản “Oulanem” của Marx:
Họ cũng là Oulanem, cũng là Oulanem!
Có cái chết vang trong cái tên đó, vang lên
Cho tới khi người ti tiện mang nó kết thúc.
Nhưng đợi xem, ta đang có nó! Rõ như không khí,
Chắc như xương ta, nó thăng lên từ linh hồn ta.
…
Nhưng ngươi, trong cánh tay trẻ khỏe của ta,
Và chúng xoắn lên điên cuồng ở trước ngực.
Trong bóng đêm, vực không đáy mở ra và nuốt trọn chúng ta,
Nếu ngươi chìm xuống, hãy cười, ta sẽ theo ngươi,
Và thì thầm với ngươi: “Đi xuống! Đi xuống với ta! Đồng chí!”
Trong Thánh Kinh mà Marx học ở đại học nói ma quỷ bị một vị thiên sứ quăng vào vực không đáy (Khải Huyền, 20:3). Vực không đáy này là dành cho ma quỷ và các thiên sứ sa ngã. Marx muốn đưa toàn nhân loại vào trong địa ngục này.
Trong kịch bản này, ai đang đại biểu cho lời thoại của Marx? Từ ngôn ngữ của người trẻ tuổi, chúng ta có lý do để nghĩ rằng: Ông ta muốn ném toàn nhân loại vào ngục không đáy, còn bản thân ông ta đang cười những người bị thuyết vô thần dụ dỗ. Ngoại trừ nghi lễ thăng cấp của giáo hội Sa-tăng ra, trên thế giới không có bất cứ một loại lý niệm nào như vậy.
Trong kịch bản “Oulanem”, khi Oulanem chết, Marx mô tả:
Tất cả đã mất! Thời giờ đã mãn, và thời gian
Dừng lại. Vũ trụ tầm thường này sụp đổ.
Ngay khi ta siết chặt vĩnh hằng và hét lên,
Câu nguyền rủa thật lớn vào tai con người.
Marx thích lặp lại câu nói của ác ma Mephistopheles: “Hết thảy những gì tồn tại đều nên bị hủy diệt”. Ông ta thích trích dẫn câu nói đó.
Hết thảy những thứ này là chỉ điều gì? Công nhân, nông dân, trí thức, thương nhân? Người tin chủ nghĩa cộng sản? Hay là toàn nhân loại? (Người viết bổ sung thêm: Nguyền rủa cả nhân loại đều bị hủy diệt, chỉ có ma quỷ Sa-tăng mới có ý tưởng như vậy [2])
(Trích đoạn)
Thành viên Sa-tăng giáo không phải là người duy vật, họ tin rằng có sự sống sau khi chết. … cho rằng sự sống sau khi chết chứa đầy thù hận đối với Đấng Tối Cao. Đối với ma quỷ, “vĩnh hằng” đồng nghĩa với “khổ hình”. Chính vì vậy ma quỷ mới trách mắng Chúa Jesus: “Hỡi Con Đức Chúa Trời, chúng tôi nào có gây sự gì với Ngài chăng? Ngài đến đây để hình phạt chúng tôi trước kỳ sao?” (Phúc Âm Matthew, 8:29). Marx cũng có cùng một loại bất an như vậy. Trong “Oulanem”, ông ta viết:
Vĩnh hằng! Nó là nỗi đau vĩnh hằng,
Cái chết không thể tưởng tượng, đo lường được!
Một mưu kế tà ác được trù tính để chế nhạo chúng ta,
Không gì ngoài máy đồng hồ, cỗ máy câm lặng rung lên
Trở thành lịch — trò hề của thời gian; trở thành,
Chỉ là thứ gì đó nhờ đó ít nhất có thể xảy ra;
Và để hủy diệt, chỉ có thể là hủy diệt!
(Trích đoạn)
Khi Marx viết “Oulanem”, cậu thanh niên trẻ này mới chỉ gần 18 tuổi. Lúc ấy, kế hoạch ấp ủ cả một đời của ông ta đã thể hiện rất rõ ràng. Marx không hề ảo tưởng vì nhân loại, vì giai cấp vô sản, hoặc vì chủ nghĩa xã hội mà phục vụ. Ông ta muốn hủy diệt cả thế giới, làm rung động cả thế giới, lấy đau đớn, rối loạn làm cơ sở để dựng ngai của ông ta.
Lời kết:
Mars, chủ nghĩa cộng sản, đảng cộng sản, là tổ chức hữu hình mà Sa-tăng kiến lập tại thế gian con người. Kể từ khi sinh ra, nó đã lấy phản đối tín ngưỡng chính thống và văn hóa truyền thống làm mục đích, lấy phá hoại luân lý chính thường và đạo đức nhân loại làm căn bản, giết người hại mệnh, họa loạn thế gian. Ai mà người gia nhập tổ chức này, thì chính là thành viên của ma giáo (bị nhận ấn ký), chắc chắn phải uống rượu thịnh nộ của Thượng Đế, trở thành vật hy sinh của ma giáo. Bởi vậy xóa thú ấn, thoái xuất ma giáo cộng sản là điều rất quan trọng để được tân sinh.