Bảo Giang (Danlambao) - Có thể nói rằng: Cuộc tuyên truyền vĩ đại, đầy hào nhoáng trong gian dối của đảng CS với những khẩu hiệu lẫy lừng như: Đả phong, bài thực, Giải phóng dân tộc, Độc lập tự do hạnh phúc, Lấy ruộng cho dân cày, Nhân dân làm chủ, cán bộ là đầy tớ, Chính phủ vì dân cho dân, rồi đến Chống mỹ cứu nước... tất cả đã bước vào cõi chết. Ngoại trừ, một “tiêu lệnh” lẫn lộn trong đám xà bần, rác rưởi ấy không chết. Trái lại, nó vẫn sống và được truyền đời như một kỳ tích vĩ đại của “cộng hòa xã hội chủ nghĩa” mà người dân phải nhớ trong sợ hãi là “thà giết lầm hơn bỏ sót”!
Thật vậy, sau tám mươi năm làm cuộc tuyên truyền xảo trá, bịp bợm, bộ mặt buôn dân bán nước của đảng CS đã hoàn toàn lộ diện. Nó lộ diện không phải chỉ bằng những văn bản gian dối, nhưng còn bằng những sự kiện thực tế trong cuộc sống của xã hội. Ở đó, với một đất nước mà người dân không hề biết đến chữ công lý, hạnh phúc là gì nhưng có đầy đủ bần cùng, tang thương, áp bức. Một đất nước chẳng thấy được độc lập, tự do. Trái lại càng lúc càng chìm đần vào vòng nô lệ của kẻ thù nghìn đời từ phương bắc. Và một đất nước mà phần đời sống tinh thần được tuyên truyền học tập theo gương đạo đức của Hồ Chí Minh một người mà những sự thật xấu xa về ông ta đã và đang được phanh phui - điển hình là loạt bài viết "Những Sự Thật Không Thể Chối Bỏ" mới đây của Đặng Chí Hùng đăng trên Danlambao. Chính từ đối tượng để học là ông Hồ Chí Minh - người đã đeo mặt nạ Trần Dân Tiên để tự viết bài bốc thơm mình cho nên kết quả càng học, càng tập, càng chìm ngập vào cuộc khủng hoảng luân lý, đạo đức để gây ra nhiều loại tội ác. Tấm gương sống chiến đấu học tập theo gương Hồ Chí Minh là hành động đấu tố cha mẹ, họ hàng, anh em, làng xóm. Tấm gương đó là để đàn em giết chết vợ Nông Thị Xuân, rồi quăng xác ra đường giả làm tai nạn lưu thông, là chối bỏ nhân tính con người, chối bỏ luân lý, đạo đức của xã hội, bác ái của tôn giáo. Chỉ may ra những gia đình, đoàn hội, tổ chức nào chưa bị loại đạo đức này trấn áp thì còn giữ được lễ nghĩa, phần nhân tính và tránh được những loại tội đại ác ấy xảy ra mà thôi. Nhìn xã hội tàn tạ, không còn sức sống như thế, dù rất sợ hãi cái bạo ác của chế độ, mọi người đều muốn Chôn Nó Đi.
Làm sao chôn nó đây?
Câu hỏi này đã giày vò cả dân tộc trong 67 năm qua. Đến nay, xem ra vẫn chưa tìm được một câu trả lời cho thỏa đáng. Bởi vì nó được phủ kín với ít nhất, bốn sự kiện:
1. Bạo lực và cuộc tuyên truyền đầy bất lương của cộng sản.
2. Vấn đề của những người đang có quyền lợi với cộng sản.
3. Những kẻ “theo voi hít bã mía”.
4. Lòng dân.
Những sự kiện này được coi, được thổi lên như là một thứ núi cao tường dầy, bất khả vượt qua, bất khả hạ bệ? Thực tế ra sao? Mỗi người xem ra vẫn có câu trả lời khác nhau. Theo tôi, không có bạo lực, gian dối nào là bất diệt. Cuộc sống của nó chỉ là một khoảng thời gian. Nói thế, không có nghĩa là tự nhiên nó lăn ra chết. Nhưng nó bị khai trừ vì Công Lý và Sức Mạnh tự trong lòng người cùng tác động trên nó. Theo đó, dù CS có trong tay hai loại vũ khí sắc bén tuyệt đối là gian trá và bạo tàn, cũng không có ngoại lệ.
1. Vấn đề bạo lực và cuộc tuyên truyền bất lương của cộng sản.
Vào thời điểm này, nếu chúng ta không phải bỏ ra quá nhiều thời gian để tẩy xóa đi những hình ảnh, những ngôn từ hào nhoáng đầy gian trá trong tuyên truyền của cộng sản đã lập đi lập lại trong 80 năm qua,(vì không còn ai tin cộng sản nữa) thì vẫn không thể phủ nhận rằng, cuộc tuyên truyền bất lương ấy không còn là một sức ép đáng kể, làm ảnh hưởng đến tinh thần và đời sống của người dân. Tuy nhiên, nó vẫn có một ảnh hưởng nhất định. Bởi vì sức ép này, ngoài việc tạo nên cuộc khủng hoảng sợ hãi triền miên cho người dân, cho đoàn đảng viên cộng sản, nó còn chia cắt người Việt Nam ra thành nhiều mảnh rời, với những quy chế khác nhau. Từ đó, nó tạo ra một hình ảnh đầy ảo giác, cộng sản là một khối đồng nhất, “bác, đảng” là vật bất khả bị hạ bệ, để tập đoàn CS tiếp tục ngạo mạn sống trên những thống khổ của cả dân tộc. Liệu “bác, đảng” có là vật bất khả hạ bệ hay không?
Trước hết, việc Nguyễn Tấn Dũng đưa ra công văn mang số 7169/vpcp-cn trong đó có đoạn: “4. Các bộ ngành, các địa phương lãnh đạo cán bộ, công chức, viên chức, không xem, không sử dụng, loan truyền và phổ biến các thông tin đăng tải trên các trang phản động, có nghĩa là các trang không do sự chỉ đạo và điều hành của các cơ quan nhà nước...” đã cho thấy rằng, công tác tuyên truyền bất lương và luật lệ của nhà nước CS đã đưa nhau vào cõi chết. Nó đưa nhau vào cõi chết bởi vì:
Về phía nhà nước, nội bộ: đây chỉ là một một thứ công văn thường từ văn phòng của chính phủ, nhưng nó đã tự khoác cho mình cái áo sức mạnh trên cả Hiến Pháp. Nó hầu như đã công khai hủy hỏ, xóa sổ điều 69 trong bản văn Hiến Pháp năm 1992, dẫu như điều này từ trước chỉ có giá trị để lừa bịp người dân qua từng giai đoạn hơn là giá trị thực tế trong sinh hoạt. Tuy thế, nó giống như nước vôi quét ngoài cái mả, nhà nước cộng sản luôn dùng để rêu rao trong làng ngoài ngõ “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin... “. Nhưng nay, xem ra nó đã bị đạp đổ bởi cái văn thư cấm đọc, cấm nghe cấm tuyên tuyên truyền thông tin của Nguyễn Tấn Dũng. Nếu tính chi tiết hơn, cái văn thư này đã tách rời thành phần “công dân” ra làm hai phần. Thành phần có tên trong cấm thư như “Các bộ ngành, các địa phương lãnh đạo cán bộ, công chức, viên chức” thì bị cấm “không xem, không sử dụng, loan truyền và phổ biến các thông tin đăng tải trên các trang không thuộc về phái khiển của nhà nước”. Việc bị tách rời, bị cấm cho thấy, công văn này không coi những thành phần này là “công dân” Việt Nam theo điều 69, nhưng là những thành viên nô lệ nội bộ trong đảng? Nên bị Nguyễn Tấn Dũng rọ mồm, rọ mắt, rọ tai? Hỏi xem, việc ngăn cấm này là một sinh hoạt bình thường trong nội bộ, có tính truyền thống bảo làm gì, ăn gì thì làm nấy, hay là đến lúc bạo lực tự đào lỗ chôn nhau?
Về phía người dân, không thấy nêu rõ trong công văn, nên có thể không bị rọ mồm, rọ tai, rọ mắt trên giấy tờ, nhưng có phần chắc là sẽ bị khủng bố mạnh? Bởi vì, nó đã gián tiếp ngạo mạn, coi thường dân tộc, dân sinh bằng cách ám chỉ là, nhà nước cho gì đọc nấy, cho gì ăn nấy. Không được đọc, không được xem, không được nghe, không được nói những gì nhà nước không cho đọc, không cho nghe, không cho nói! Hoặc không được đòi hỏi bất cứ điều gì khác, nếu bất tuân sẽ bị nghiêm trị? Kinh quá! Liệu dân ta có dễ dàng chấp hành cái lệnh cấm đầy tính man rợ này không?
Đó là những câu hỏi rồi ra sẽ có câu trả lời. Tuy nhiên, đến nay thì ai cũng biết, sở dĩ có lệnh cấm là vi thành phần chính yếu theo dõi sách báo, tin tức, bình luận là những người trong các giới công nhân, viên chức, các bộ, đoàn đảng viên, các ban ngành, các cơ quan lãnh đạo địa phương, thanh niên, học sinh và giáo chức... không còn hứng thú với các loại sách báo, tin tức rẻ tiền, nặng mùi gian trá của chế độ nữa (dân chúng thì đã vứt bỏ nó đi từ lâu rồi). Trái lại, họ muốn đi tìm kiếm và nghiền ngẫm những loại tin tức, bình luận với cảm nhận của con người trong sách báo, các trang mạng độc lập ở trong và ngoài nước, hay gần đây trên Danlambao, Quanlambao, Biển Đông. Có thể lúc đầu, họ cũng cho đây là những trang mạng phản động như lời nhà nước tuyên truyền. Nhưng càng đọc, họ càng nhận ra con người là sự hiện diện của nhân bản và họ đã mở mắt ra. Việc cán bộ, công nhân, viên chức mở mắt ra và chê, bỏ nguồn thông tin từ nhà nước để đi tìm cảm nghiệm thật trong những chân trời mới đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng, sinh tử đối với chế độ. Bởi vì, khi người đọc đã nhìn ra tất cả những thứ tồi tệ, gian dối trong xã hội đều do cộng sản tạo ra. Họ sẽ thay đổi tư duy, thay đổi cái nhìn với nhà nước.
Dĩ nhiên, những suy nghĩ ấy của cán bộ, đảng viên không phải nhà nước không biết. Hơn thế, tập đoàn lãnh đạo còn biết rõ ràng là nó sẽ đến sớm hơn họ phỏng đoán, nên không còn một chọn lựa nào khác ngoài việc ra thông tư để cấm. Việc cấm có thể phát sinh những đột xuất, nhưng giữ được ngày nào thì hay ngày nấy. Kết quả chưa chắc cấm được ai, còn cho mọi người thấy là: Việc tuyên truyền xảo trá của CS đã chết. Nó chết ngay từ trong lòng đảng. Chết từ địa phương cho tới trung ương. Và công văn kia trở thành hồi chuông báo tử cho chế độ.
Thật vậy, sau lệnh cấm, người ta càng ngày càng chuyền tai nhau nói đến Danlambao, Quanlambao hay các trang mạng độc lập khác nhiều hơn. Họ tìm đọc vì nó đem đến cho người đọc những hiểu biết thực tế trong đời sống xã hội, thêm hiểu biết về dân chủ, nhân quyền, công lý đích thực. Bên cạnh đó họ còn tìm thấy những phê phán rạch ròi về nguyên nhân và tình trạng bệ rạc của XHCN, trong đó có việc nêu đích danh những tên tuổi, những kẻ lợi dụng quyền lực, đầu cơ trục lợi, làm lũng đoạn nền kinh tế quốc gia, làm băng hoại nền luân lý, đạo đức của xã hội, đẩy người dân vào chỗ khốn cùng. Đây là những thông tin vốn quý, có giá trị và cần thiết cho cuộc sống lành mạnh của xã hội. Nó như những giọt máu hồng, tuy còn ít, nhưng dần dần đủ khả năng loại trừ, đào thải loại máu chứa đầy chất ung thư của nhà nước CS ra ngoài. Hơn thế, có khả năng làm thay đổi tư duy, thay đổi cái nhìn về chế độ CS. Từ đó, có khả năng biến thành sức mạnh làm thay đổi hoàn toàn cơ chế của đất nước. Vì tiềm năng sức mạnh của nó lớn như thế, nên việc Nguyễn Tấn Dũng quy kết cho hai trang mạng Danlambao, Quanlambao cái tội “phản động” như các trang mạng ở hải ngoại, không chỉ là một phản ứng giống như “đỉa phải vôi” mà còn là một dấu hiệu cho thấy là CS sẽ mở ra những cuộc trấn áp, đấu tố một ít nhân sự theo lối “nhân văn giai phẩm” để khủng bố tinh thần người dân và triệt hạ những nguồn tin hữu ích này.
Riêng trang biendong.net bị quy kết là “phản động”, cần phải truy cứu và nghiêm trị thì nó lại mang một cái ý nghĩa khác. Lý do, biendong.net từ cái tên mang chủ đề là một trang nặng về những đề tài, trưng dẫn những tài liệu lịch sử xác minh Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam. Lẽ ra, một nhà nước tự xưng là của Việt Nam thì phải tìm cách hỗ trợ và đưa trang mạng này đến với người dân Việt Nam để người dân thêm ý thức về tổ quốc của mình thì đảng và nhà nước cs, vốn không phải là của người dân Việt Nam, nên đã không làm như vậy. Trái lại, họ còn quy kết biendong.net tội phản động và tìm cách xử lý. Với một lệnh lạc như thế, văn thư 7169 này buộc người đọc phải nghĩ đến một trong hai cái xuất xứ thật của nó là:
a. Đã phát xuất từ văn phòng chính phủ Trung cộng và người ký nó là mấy chú chệt. Vì nó muốn cướp đoạt Hoàng Sa Trường Sa của Việt Nam và gọi là Tam Sa.
b. Nếu nó phát xuất từ VP của nhà nước Việt cộng thì hẳn nhiên nó được làm ra dưới sự chỉ đạo của người tàu. Tàu muốn dùng danh nghĩa Việt, người Việt để chống lại lịch sử của dân tộc Việt Nam. Như thế, cái văn phòng và người ký tên chỉ là những kẻ nô lệ, phản quốc.
Với một xuất xứ như thế, dĩ nhiên, chủ đích của cái văn thư ấy, không phải là ở việc cấm các đoàn đảng viên các ban ngành hay dân chúng Việt Nam không được đọc, phổ biến tin tức bài vở trên các trang mạng Danlambao, Quanlambao, Biển Đông hay các trang mạng độc lập... Vì có cấm cũng không cấm được ai. Nhưng là việc nó muốn răn đe, thách đố người dân Việt Nam rằng: Văn phòng này có Tàu cộng đứng sau lưng, đang chỉ đạo mọi công việc, và nó phải hoàn thành công tác theo chỉ thị của Tàu. Nghĩa là, Tàu cộng đang dùng tay sai Việt cộng ngụy tạo thông tin, bịt mắt đồng bào, buộc người dân đi vào kế hoạch bành trướng của Tàu cộng, dân phải quên hẳn Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam đi. Nếu không, khả năng những kẻ phản quốc sẽ mở ra những cuộc đấu tố, khủng bố thành phần có tinh thần quốc gia dân tộc giống như chúng đã từng “mượn gió bẻ măng” trong cuộc đấu tố 54-58. Một cuộc đấu tố đầy man rợ và bất lương đã dẫn HCM đến thành công trong việc cướp lấy công quyền của đất nước rồi thảm sát hơn 170.000 thành viên của dân tộc Việt Nam. Liệu việc bịt mắt, thách đố người dân và đẩy đân tộc ta vào đến chân tường bằng cái văn thư này, có mang lại kết quả của thời 54 không?
Tôi không tin thế, dù khả năng của đảng cs mở ra những cuộc đấu tố với một số người bị bắt, bị giam giữ hoặc bị thủ tiêu theo chính sách “thà giết lầm hơn bỏ sót” là rất lớn. Tuy nhiên, tuyệt đối không thể đưa đến kết quả là mọi người phải câm lặng chịu nhận như những năm 54-58. Trái lại, cái bạo lực và cuộc tuyên truyền bất lương của cộng sản sẽ bị bật gốc, và hệ thống thông tin tự do sẽ đứng trên đỉnh cao của thắng lợi. Bởi vì, vào thời kỳ trước, HCM nắm toàn bộ hệ thống tuyên truyền sắt máu từ trong ra ngoài, và các đoàn đảng viên cộng sản phần vì say máu, phần vì sợ bị thủ tiêu, phần vì tưởng lầm HCM là người có lòng yêu nước và cũng không biết có Tàu cộng đứng sau lưng chỉ đạo mọi việc. Họ đi theo giặc mà không hay biết. Phần người dân thì không có lấy một nguồn thông tin nào khác ngoài việc được rỉ tai cho nhau nghe về những cuộc đấu tố để mà sợ hãi, nên đã tạo cho CS cái thế thành công một chiều bằng con dao mã tấu.
Nay chuyện đã khác rồi. Mặc dù hệ thống tuyên truyền một chiều, gian dối vẫn nằm trong tay nhà nước. Nhưng hệ thống thông tin tự do, tư nhân đã có hàng triệu, triệu đài phát thanh (hệ thống điện thoại) và có hàng ngàn cơ sở là các trang mạng, luôn truyền tải Hành Trình đi tìm Tự Do, Công Lý Nhân Quyền của dân tộc và vạch trần ra trước công luận những bộ mặt gian trá của chế độ. Theo đó, không phải chỉ có năm ba người dân biết bộ mặt buôn dân bán nước của những lãnh đạo cs qua những công văn còn được lưu trữ, mà tất cả hàng ngũ cán bộ đảng viên, từ trung ương đến địa phương đều biết rõ việc bị tập đoàn lãnh đạo phản bội và sỉ nhục. Tuy ngoài mặt thì phải vờ ca tụng HCM để yên thân, nhưng từ trong thâm tâm có lẽ không còn mấy người đánh giá HCM như thần thánh, và coi đảng là nơi đáng tin cậy. Trái lại, đó là một loại tà thần ác độc cần phải loại trừ ra khỏi xã hội, phải Chôn Nó Đi.
Từ những diễn biến này cho thấy rằng: Cuộc tuyên truyền gian trá và bạo lực của cộng sản đã không còn chỗ đứng, không còn đáng sợ như xưa. Nói cách khác, chúng sẽ bị đánh bật gốc khi các hệ thống thông tin của tư nhân, bao gồm các trang mạng, liên lạc cá nhân (điện thoại) cùng mạnh mẽ, liên tục truyền đi những bản tin về Dân Chủ, Tự Do và Công Lý. Truyền đi những lời “Chào Tự Do”, “Chào Công Lý” và truyền đi những bản tin về ngày hội thay đổi toàn bộ cơ chế của đất nước đã đến. Khi người người nhận lấy trách nhiệm trước lịch sử và cùng bước vào cuộc vận động chung bằng cách, khai triển rộng rãi các tin nhắn vào mọi tầng lớp sử dụng điện thư, điện thoại, tạo thành một phong trào đi tìm Tự Do lớn mạnh trong toàn dân, đó cũng là lúc chúng ta có sẵn cái lỗ để Chôn Nó Đi.
Riêng phần bạo lực của CS vẫn còn là nỗi sợ hãi tồn đọng trong lòng dân chúng, nhưng đó không phải là điều không thể vượt qua. Thảm họa nô lệ từ Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống và nỗi sợ hãi là cực lớn nhưng tiền nhân ta đã bước qua. Lẽ nào tập đoàn cộng sản Hồ Chí Minh sẽ có ngoại lệ? Tôi tin là sẽ không bao giờ. Trái lại, bằng nhiệt tâm với quê hương rồi nhờ những thông tin, tín hiệu ngắn gọn gởi cho nhau như: “Tàu đã chiếm biển đông”, “CS đưa Tàu vào chiếm Tây Nguyên”, “Thà chết không làm nô lệ cho Tàu”... sẽ dần tạo thành một phong trào yêu nước, bảo vệ tổ quốc lớn mạnh. Người dân Việt không khuất phục bạo quyền để sống làm nô lệ. Đoàn đảng viên cộng sản không muốn làm nô lệ cho Tàu sẽ gặp nhau và tất cả cùng chung lưng đứng dậy, nói lên chủ kiến của mình. Khi người dân đạp trên sợ hãi mà đi, cuộc thay đổi cơ chế của đất nước đã bắt đầu.
2. Những người đang có quyền lợi với cộng sản.
Như ở phần trên tôi đã trình bày. Mới nhìn đến, người ta cho rằng đây là một lực lượng đáng kinh khiếp. Thực tế không phải như vậy. Trái lại, tôi cho rằng, nếu có 3 triệu đảng viên cộng sản tại VN thì sẻ không có quá 5% trong số này sẽ sống chết để bảo vệ cái đảng giả nhân này, ngay trong hàng ngũ cao cấp nhất của cái gọi là Bộ Chính trị cũng không có ngoại lệ, có nguy cơ là bỏ chạy chứ không thể ở lại đối đầu. Bởi lẽ, có gian hùng như Tào Tháo thì củng không quá ba đời và con cái của Y đã trả cái giá không rẻ.
Hiện nay, toàn bộ các đoàn đảng viên cộng sản đều nắm giữ công quyền, có tiền, có thế lực nhất thời, nhưng họ không có một giấc ngủ yên như Nguyễn Cơ Thạch đã từng tuyên bố: “không có ngoại giao với Mỹ, chúng tôi chỉ ngủ một mắt”. Nói là với Mỹ cho có vẻ ngoại giao vậy. Thực chất là Thạch muốn ám chỉ rằng, nếu Việt Nam không trở thành một đất nước độc lập có chủ quyền, có tự do, dân chủ, trái lại xin làm nô lệ cho Tàu cộng thì Việt cộng chỉ ngủ bằng một con mắt. Còn một bên khác thì phải mở ra để xem khi nào Trung cộng nó sẽ thịt mình!
Gạt bỏ ra bên ngoài sự kiện ông ta có phải là một đảng viên cộng sản theo chủ nghĩa dân tộc, thức thời hay không, nhưng từ câu phát biểu đó cho thấy, cá nhân Thạch và hầu như toàn bộ các đoàn đảng viên CSVN đều sợ nanh vuốt tàu. Sợ nhưng không một ai dám nói ra cái ý nghĩ sâu kín ở trong lòng là hãy Chôn Nó Đi để trở về với nhân dân, về với Tự Do. Họ không dám nói ra vì ở trong một xã hội được tổ chức bằng và lấy liềm, búa làm hiệu lệnh, lấy dối trá phủ lấp sự thật, người ta phải nói dối nhau mà sống. Vợ chồng con cái phải học tập đạo đức tố giác và chém giết nhau, làm sao có thể nói ra tâm tư của mình với người ngoài? Kết quả, đều phải lừa nhau bằng chữ trung thành với bác với đảng cho qua ngày, trong lúc ruột dạ thì cầu mong có một cơ hội để đổi thay toàn bộ cơ chế bất lương mà chính họ đã nhúng chàm này. Theo đó, nếu trong hàng trăm vị tướng quân dội và công an, chỉ cần có năm, bảy người mang hào khí của Ngô Quyền, Hưng Đạo Vương, Quang Trung... đứng dậy, toàn bộ các cán bộ đảng viên sẽ đi theo.
Đây, dĩ nhiên không phải là bản thống kê. Nó chỉ là một dự đoán có cơ sở từ các đảng cộng sản Liên Sô, Ba Lan, Đông Đức, Hungary hay Romania... vào trước thời kỳ sụp đổ ở Đông Âu năm 1989. Nghĩa là, khi triều nước dâng lên, họ không lao đầu phản lại nguyện vọng lớn của toàn dân là muốn thay đổi cơ chế của đất nước. Trái lại, họ như sẵn sàng chờ đợi giờ phút đó. Họ chờ đợi vì nhiều lý do, trong đó phải kể đến việc, cơ chế này có thay đổi, họ cũng chẳng mất gì. Bởi vì, nó hoàn toàn khác với cái thay đổi và phá hoại sau cuộc chiến 75. Nghĩa là, tất cả những công việc họ đang làm, những chức vụ họ đang nắm giữ đều không có gì thay đổi. Có chăng là đất nước có một Quốc Danh, Quốc Hiệu, Quốc Huy khác, là phản ảnh ý muốn của toàn dân. Phần cá nhân thì họ chỉ việc xé bõ cái thẻ đảng viên CS đi, vất nó vào xọt rác rồi sống trong an bình với gia đình, bà con làng xóm, hài hòa với toàn dân. Được lợi như thế, tại sao họ không làm?
Với cơ sở này, tôi tin là hầu hết các cán bộ đảng viên CS đều giữ yên lặng khi có đột biến xảy ra, sẽ không có nhiều phần trăm trong số đảng viên liều chết bảo vệ đảng, chống lại tổ quốc và dân tộc của mình. Theo đó, không ai đánh giá việc họ không trực tiếp tham dự vào cuộc đổi thay với đồng bào là thiếu thiện chí, thiếu trách nhiệm, là chống lại đồng bào. Trái lại, đều nhìn vào thực tế mà đánh giá sự yên lặng của họ là một đóng góp vô cùng lớn lao cho đại cuộc trong việc thay đổi cơ chế này. Bởi vì, chính họ sẽ là những người ngay lập tức trở lại nhiệm sở, cương vị của mình, trước là để góp phần vào việc ổn định tình thế mới, sau là tích cực mang tài năng, nhân phẩm của mình góp phần vào việc phát triển đất nước trên các phương diện hành chính, kinh tế, quân sự và an ninh giống như kịch bản đã diễn ra ở Liên Sô và Đông Âu.
Xin nhớ, trong cuộc thay đổi cơ chế tại Liên Sô và đông Âu, hầu như không có mấy người đảng viên cộng sản bị gạt ra ngoài lề sinh hoạt của xã hội mới. Trái lại, họ chính là những người giữ vững guồng máy trong ổn định để chuyển sang một hệ tư duy mới. Theo đó, chúng ta không sợ phải đối đầu với một lực lượng xem ra rất khủng khiếp là 3, 4 triệu đảng viên CS. Nếu có thì cũng chỉ với một thiểu số rất nhỏ và nó cũng không kéo dài. Bởi lẽ, tinh thần nhân bản Việt vẫn còn rất mạnh mẽ trong lòng mọi người. Họ không phải là kẻ thù của nhân dân, và đồng bào cũng không phải là kẻ thù của họ, trừ khi họ là kẻ phản quốc. Chúng ta không có lý do để đối đầu với nhau. Hơn thế, họ là những viên chức công chức các ngành, các cấp của đất nước đang tại chức, là những người sẽ cùng đồng hành với toàn dân trong sứ mạng thay đổi cơ chế, tư duy của đất nước trong trật tự.
Đây, dĩ nhiên, không phải là một cách tính “ưu đãi” để bị đánh giá là “điều kiện” để “hòa giải, hòa hợp” với cộng sản. Nhưng là một phương trình thực tế có sẵn để hóa giải tất cả những xung khắc trong tư duy riêng biệt của từng người, của từng nhóm, hay của từng đoàn thể để đưa đến một sự đồng hành trong việc thay đổi toàn diện cơ chế cũ, và giữ vững trật tự để kiến tạo tiến trình xây dựng đất nước đặt nền tảng trên ý thức Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Công Lý, ngõ hầu đem lại phúc lợi cho toàn dân. Đây mới chính là cuộc cách mạng triệt để của toàn dân đang hướng tới. Trong cuộc các mạng này, chẳng một ai sẽ là vật cản trở, ngoại trừ những kẻ phản quốc, phản bội dân tộc.
(Còn tiếp - 3. Theo voi hít bã mía..., 4. Lòng dân)