Sau 37 năm miền Nam bị giải phóng, bài xã luận ấy ra sao? Câu trả lời là: “Cái gì của ma quỷ thì trả lại cho ma quỷ.” Nghĩa là, hãy trả lại chúng những gì chúng đã nói và viết ra. Tuy nhiên, khi loại trừ cộng sản ra khỏi xã hội Việt Nam, ta không cần giam chúng lại. Nhưng sẽ lấy tính nhân bản và đạo lý của dân tộc để giáo hóa chúng thành những con người có lễ nghĩa. Biết chút lễ giáo, nói năng với người trên, kẻ dưới. Để, nếu chúng không có khả năng hữu dụng cho xã hội thì ít ra cũng không thể thành những kẻ thủ ác làm hại cho đời sống của người dân và đất nước này.
Kết luận này không lạ. Bởi sau cuộc chiến súng đạn cả một xã hội nhân bản, tiến bộ của miền nam đã bị biến dạng, bị đồng hóa và thay thế bằng một guồng máy bao cấp gọi là chính quyền chỉ bao gồm toàn những kẻ lấy gian dối làm lẽ sống, lấy bạo lực làm lý luận. Từ đó, tập đoàn cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn đạt mục tiêu là thỏa mãn cuộc sống trong gian trá và tội ác như lời ông Nguyễn Hộ bộc toạc, công khai hóa ra bên ngoài là: “Đối với bọn Ngụy quân, Ngụy quyền, nhà của chúng: ta ở; vợ của chúng: ta xài; con của chúng: ta bắt làm nô lệ; còn bọn chúng nó: ta giam cho đến chết!”. Đây là những bí mật nhà nước, nên trở thành cái vạ miệng cho ông Nguyễn Hộ, khiến ông bị CS đẩy ra ngoài và dần trở thành nạn nhân và kẻ bất mãn chống lại chúng. Trong khi đó, về phía người dân thì gần như mất hẳn quyền làm người của con người. Từ thời điểm đó, thay vì cúi đầu đi theo đường vô đạo, bất nhân của HCM và tập đoàn cộng sản Việt Nam chủ trương, áp đặt, người Việt Nam đã nhìn ra một con đường cho tương lai của đất nước là: Nếu muốn tìm một cuộc sống nhân bản và độc lập cho dân tộc, họ buộc phải loại trừ tập đoàn gian trá này ra khỏi đất nước. Tuy thế, hướng chọn lựa không phải là súng đạn, giáo mác để đưa đến đổi thay. Nhưng là sự giáo hóa về xã hội và nhân bản. Đường đi có chậm, nhưng phải đến.
I. Nhìn lại quá khứ
Nay thì mọi người đều biết rõ rằng, chúng ta thua trong cuộc chiến súng đạn vào năm 1975, không phải vì chúng ta không có quyết tâm, không có khả năng. Hoặc giả, không có những người tài trí lãnh đạo đất nước. Trái lại, chúng ta có tất cả những sự kiện đáng tự hào, từ người lãnh đạo cho đến quân đội, đồng bào. Nhưng kết quả lại trái chiều với những tự hào ấy là vì có quá nhiều lý do. Từ khách quan đến chủ quan. Từ bên trong cho đến áp lực bên ngoài. Nghĩa là phía Miền nam được cho lên cái chảo dầu, mà tứ phía đều ra sức đổ thêm dầu và cho thêm củi vào cái bếp đang cháy dữ dội. Trong lúc nền dân chủ còn non trẻ bị “căng da” như thế, có một số cá nhân ở miền Nam còn tự đi vào con đường hủy diệt chính cuộc sống của miền Nam bằng cách tiếp tay với cộng sản, làm sụp đổ toàn bộ thể chế Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam. Vào năm 1963 họ đã “luộc” TT Ngô Đình Diệm. Đến tháng 4 năm 75 họ nướng luôn TT Nguyễn Văn Thiệu để hoàn tất chương triệt hạ ý chí bảo vệ đất nước trong màu cờ Độc Lập và Tự Do, rồi giúp cộng sản đưa đất nước vào con đường nô lệ và băng hoại như hôm nay. Công việc tiếp tay của họ được thể hiện rõ nét trên hai phương diện kinh tế và chính trị.
a. Về chính trị:
Ở miền Nam, sau khi TT Ngô đình Diệm đã ổn định đất nước và đưa người dân vào cuộc sống an bình, nhất là vào những năm 1956-1962, nhiều người (đa phần là từ lớp bồi tây còn xót lại) bỗng phát cuồng và nẩy sinh ra những bộ óc mang đầy ảo giác chính trị, mê làm lãnh tụ. Thậm chí còn tự đánh giá mình có điểm cao hơn cả vị TT đang được thế giới kính nể. Vì mang ảo giác, nên thay vì họ tập hợp lực lượng, đưa ra những chương trình thiết thực cho quốc gia để có thể tranh thủ lá phiếu của người dân trong các cuộc bỏ phiếu công khai với TT Diệm, hay trong quốc hội như các nước tự do tây phương đã thực hiện. Họ lại chỉ bàn tính đến việc làm quan thật nhanh qua việc đảo chánh, cướp chính quyền! Kết quả, sau ngày 1-11-1963, một số trong họ đạt được mục đích, nhưng nghề “cầm lái” con thuyền quốc gia của họ là ảo tưởng, nếu như không muốn nói là quá tồi. Từ những võ biền Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính đến Phan Huy Quát, Phan Khắc Sửu, kể cả ông Trần Văn Hương... chẳng ai kéo dài quá 6 tháng!
Bên cạnh những thành phần mang đầy ảo giác ấy. Đây là một tập thể khác, còn hoang tưởng gấp bội. Họ đã lợi dụng Tự Do, nhất là sự tự do và ưu đãi mà chính phủ dành cho tôn giáo như việc các thành viên tu hành của tôn giáo không phải đi lính, không thể bị tra cứu xét hỏi lý lịch, căn cước, nơi cư trú... nên nhiều đảng viên cộng sản đã “được” họ cài cắm vào các chùa, mặc áo nhà tu, lợi dụng danh nghĩa tôn giáo do Phạm Văn Bồng (TT Quang) lãnh đạo, để quậy phá miền Nam trong các phong trào gọi là: “bảo vệ phật pháp”, “đoàn thanh niên quyết tử” với những con thò lò, hay đồ tể như HTM, LHĐ, HNN, TDBC, HPNP, HPNT, NDX... mà chính TT Thích Tâm Châu đã xác nhận trong bạch thư: “Khi quân Cộng Sản từ rừng về Sài Gòn, đã có gần 500 Tăng, Ni của phe tranh đấu Ấn Quang ra đón chào.” Kết quả, chính thành phần này là những người có công đưa miền nam vào tay cộng sản và dìm tôn giáo và nhân dân Việt Nam vào cuộc sống khố đáy điêu linh về cả hai diện vật chất, lẫn tinh thần.
b. Về kinh tế:
Mặt chính trị là thế, về diện kinh tế, không phải chỉ có dân buôn bán, nằm vùng, tiếp tế lương thực, thực phẩm thuốc men cho cộng sản Việt Nam ở trong rừng. Nhưng nhiều thành phần có chức quyền còn buôn bán cả vũ khí cho cộng sản Việt Nam. Những chuyến xe hụ còi ở Long An, Tây Ninh đã cho thấy rõ mặt trái của một số bộ phận này. Ấy là chưa kể đến một lực lượng khá lớn, buộc phải tiếp tế lương thực, thực phẩm cho cộng sản Việt Nam ở trong rừng, mà họ không phải là những thương buôn, nhưng là những người khai thác lâm sản. Thành phần này bắt buộc phải nộp tiền và mua lương thực, tiếp thuốc men cho cộng sản Việt Nam. Bởi lẽ, không có tiền rừng và lương thực họ không thể vào rừng khai thác lâm sản. Rồi một số người dân địa phương, vì không muốn cho con vào lính, kết quả, bị cộng sản Việt Nam bắt vào rừng và bản thân gia đình họ trở thành những người nằm vùng, bao che và tiếp tế cho cộng sản. Hơn thế, cộng sản miền bắc nhận được sự viện trợ dồi dào từ các quốc gia cộng sản. Trong khi đó, số tiền viện trợ cho quân dân miền nam từ các quốc gia Tự Do đều bị giảm dần và bị cắt đứt. Vời những nội tại như thế, chỉ có phép lạ mới cứu được miền nam, nhưng đời thường thì không có phép lạ.
Đó là những thất bại của chúng ta 40 năm về trước. Hy vọng sau mấy chục năm mang trên vai cái ách cộng sản, người Việt Nam học thuộc được bài học thất bại này để có thể rút ra kinh nghiệm và đưa đất nước, dân tộc vào một quãng mới của lịch sử.
II. Hướng về tương lai
Đến nay, không một người nào có thể phủ nhận rằng: Nguyên nhân chính yếu làm cho đế quốc cộng sản sụp đổ ngay tại nơi khai sinh ra nó ở Liên Sô là vì nền kinh tế và tài chính của họ đã hoàn toàn kiệt quệ. Có nghĩa là cái hệ thống kinh tế theo kiểu hợp tác xã, hay, theo kiểu tập đoàn do nhà nước chỉ huy mà cộng sản Việt Nam đang lập lại hôm nay chỉ là những cái thùng không có đáy. Nó làm hao tổn toàn bộ ngân sách của nhà nước. Nó không hề tạo ra một mối lợi nào cho đất nước. Nếu cộng sản Việt Nam có bán thêm một phần vịnh bắc bộ, thêm một phần của Lạng Sơn, Cao Bằng và lấy đủ 100 tỷ đôla , trị giá được tính bằng thành phẩm và tiền mặt, chứ không phải có 2 tỷ như năm 1999-2000, cũng không đủ để chúng chia nhau, chứ nói chi đến việc bù lỗ cho các tập đoàn kinh tế do họ tổ chức và quản lý, để vực dậy nền kinh tế đang trên bờ vực thẳm.
Thật vậy, nền kinh tế ở VN hiện nay đã kiệt quệ, cuộc sống của nhân dân đã đến mức lầm than, đồng tiền Hồ không còn lấy một chút giá trị trên trường quốc tế, bạo loạn vì kinh tế, đói kém có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, nó chưa bị sụp đổ, vỡ nợ. Trái lại, nhà nước còn có khả năng đàn áp người dân một cách mạnh mẽ là vì mỗi năm họ nhận được khoảng 10 tỷ đôla tiền mặt viện trợ do người Việt ở hải ngoại gởi về. Xin nhớ, tiền mặt có giá trị thực tế cao hơn số tiền tính trên trị giá về thành phẩm rất nhiều. Ấy là chưa kể đến số tiền của những người về du kịch, tiêu pha tại chỗ và tiền mua vé di chuyến trên các chuyến bay do nhà nước quản lý. Nếu số tiền này và dịch vụ du lịch không còn, lập tức chế độ cộng sản Việt Nam dù có gian dối và tàn bạo đến đâu thì cũng sẽ rơi vào nguy khốn. Trước là khủng hoảng nội bộ, tài chánh, dẫn đến sáo trộn và sẽ bị sụp đổ hoàn toàn. Lý do, dù là những con thú cực hung bạo, nguy hiểm như hổ báo, nhưng nếu không cho chúng ăn. Chúng đứng dậy không nổi thì sức mạnh ở đâu để bắt mồi? Tập đoàn cộng sản tại Việt Nam cũng không có ngoại lệ.
Đứng trước cuộc khủng hoảng bắt buộc phải đến của cộng sản, nhiều người Việt Nam đã nghĩ đến hai phương sách hữu hiệu, khả thi để tạo ra cơ may khai trừ cộng sản ra khỏi đất nước Việt Nam sớm hơn là: Cô lập nền kinh tế lụn bại của cộng sản Việt Nam và dùng thông tin để chuyển hóa xã hội.
1. Cô lập nền kinh tế lụn bại của nhà nước cộng sản Việt Nam
Kinh tế là huyết mạch của cuộc sống. Không có một chính phủ nào, chế độ nào đứng vững khi nền kinh tế của nó đã bị phá sản. Theo đó, đây là thời cơ tốt nhất để tất cả mọi người Việt Nam, ở trong nước cũng như ở hải ngoại, hãy vì tương lai của đất nước, và của con cháu chúng ta mà hy sinh, mà thắt bụng lại để tham gia tích cực vào chương phong tỏa tài chánh đối với nhà nước cộng sản Việt Nam. Bởi lẽ, muốn Chôn Nó Đi, không có cách nào khác ngoài việc phải đẩy mạnh những hoạt động tích cực ở trong nước, đồng thời phải cắt đứt việc tiếp tục nuôi sống cộng sản Việt Nam bằng nguồn vốn của chúng ta. Chúng ta đừng bao giờ tự lừa dối mình rằng, chúng giàu có quá rồi, cần gì đến nguồn vốn của ta. Thay vào đó là một dứt khoát khẳng định là, không có tiền của ta gởi về, chúng sẽ chết. Theo đó, phải cô lập, thắt chặt kinh tế đối với tập đoàn buôn dân bán nước cho đến khi chúng sụp đổ mới thôi.
a. Cắt nguồn vốn từ hải ngoại.
Cách đây hơn một năm, cộng sản Việt Nam đã công khai ý định chiếm đoạt tài sản là ngoại hối và vàng của người dân còn cất giữ, mua bán, hay đã gởi vào ngân hàng bằng nghị quyết 11/NQ-CP. “tiết 1, 2(c) tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức cá nhân... bán ngoại tệ cho ngân hàng. (d), xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do...” qua nghị quyết này, cộng sản đã quyết liệt đánh vào các doanh nghiệp tư nhân, qua việc cấm họ sử dụng vàng, đô la, hạn chế nhập khẩu hàng hóa, hầu thu tóm toàn bộ tài sản là ngoại hối và vàng vào tay “nhà nước”. Nghĩa là, chúng đã sẵn sàng in tiền giấy lộn hình Hồ với mệnh giá cao để cân bằng trị giá với ngoại hối và vàng một khi người gởi tiền vào ngân hàng muốn rút tiền ra. Theo kế hoạch này, không một người nào có thể rút ngoại hối hay vàng do chính mình đã gởi vào ngân hàng trước đó. Tệ hơn thế, hàng tỷ tỷ ngoại hối, và quý kim đó cũng không còn nằm dự trữ trong ngân hàng nhà nước, nhưng là trong các tài khoản của các cá nhân ở ngoại quốc!
Chuyện là thế, có lẽ nào chúng ta tiếp tục gởi tiền về để cho chúng làm băng hoại nền đạo lý, văn hóa của dân tộc và đưa đất nước vào vòng nô lệ cho phương bắc? Không, tôi không cho đây là điều chúng ta muốn, nhưng thực tế, chính chúng ta đang nuôi nó để cho nó làm như thế. Nghĩa là, ở một phương diện nào đó, thay vì trừ bạo, chính chúng ta lại là những người đồng loã, thôi thúc, giúp chúng thêm phương tiện để gây ra thêm tội ác với đồng bào của mình. Làm sao để chúng ta có thể giải tỏa được nghịch lý đầy oan nghiệt này? Có rất nhiều người đã nghĩ đến một phương án nhẹ nhàng, nhưng đầy hiệu quả là: Đề nghị tất cả mọi người hãy vì tương lai của dân tộc mà tham gia tích cực vào chương trình cứu nguy đất nước bằng cách:
- Không gởi tiền, hàng, quà, về cho thân nhân trong vòng vài năm để tiêu dùng, buôn bán, xây dựng cơ sở. Ngoài trừ những trường hợp rất cần thiết và khẩn cấp như cứu tử.
- Không về du lịch tại VN trừ trường hợp tang chế của cha mẹ, anh em ruột thịt mà thôi. Và thời gian ở lại không nên kéo dài.
- Tạm thời không bảo lãnh cho thân nhân đi du lịch hay đi du học ở hải ngoại.
- Không gởi tiền vào các ngân hàng của cộng sản Việt Nam. Tất cả những ai đã gởi tiền vào ngân hàng, giúp vốn cho nhà nước cộng sản Việt Nam thành những tên trộm cướp hợp pháp, hãy rút tất cả tài khoản đáo hạn ra khỏi các ngân hàng nhà nước (gởi vàng thì đòi vàng, gởi tiền ngoại thì đòi lại tiền ngoại).
- Không gởi về dù một chỉ là một đồng để đầu tư vào các dịch vụ nhà đất, khách sạn, nhà nghỉ hay phát triển kinh doanh tại Việt Nam. Dù có một vốn, một trăm lời cũng không gởi.
- Không mua bán lương thự, thực phẩm, đồ gia dụng nhập cảng từ Việt Nam hay Trung cộng vào đất nước, nơi chúng ta đang sinh sống.
- Không hỗ trợ bất cứ một chương trình nào ngoài chương trình nhân đạo khẩn cấp như thiên tai, động đất, bão lụt tại Việt Nam. Kể cả những việc ủng hộ cho tôn giáo để xây chùa, xây nhà thờ hay các cơ sở của tôn giáo cũng không có ngoại lệ.
- Tuyệt đối không ủng hộ, không mua vé tham dự bất cứ chương trình văn nghệ hát hò nào của các ca sĩ đến từ Việt Nam. Họ có thể không phải là những văn công cộng sản Việt Nam đi tuyên truyền, nhưng không ủng hộ vì chương trình của chúng ta.
- Đặc biệt, hãy tích cực vận động các chính phủ nơi mình sinh sống không viện trợ kinh tế cho cộng sản Việt Nam. Hơn thế, ủng hộ mạnh mẽ các phong trào tranh đấu cho nhân quyền ở trong nước.
b. Cắt nguồn vốn từ đồng bào ở trong nước:
- Kêu gọi đồng bào không gởi tiền vào các ngân hàng của nhà nước cộng sản Việt Nam.
- Kêu gọi đồng bào hãy lần lượt rút hết vốn của mình ra khỏi các ngân hàng.
- Tự tích trữ vàng bạc và quý kim (nếu có thể) thay vì tung vào các ngân hàng.
- Chiết giảm chi tiêu, mua bán trong từng ngày.
- Không mua hàng hóa có nhãn hiệu từ Trung cộng.
Đây là kế hoạch thắt lưng buộc bụng. Không, phải gọi là “cắt ruột đứt lòng” mới đúng. Bởi vì nó làm cho con tim của chúng ta rướm máu vì nỗi khổ tạm thời của người thân. Nhưng hãy vì 85 triệu đồng bào, hơn thế, vì tương lai của dân tộc Việt Nam, chúng ta không thể không cùng nhau thực hiện.
Về hệ quả, có nhiều người từng đi về Việt Nam, họ đã quan sát kỹ lưỡng và quả quyết với tôi rằng. Nếu mình không gởi tiền về, không đi du lịch và vận động những người ngoại quốc không du lịch Việt Nam, chúng nó sẽ chết ngay. Chết không kịp trăn trối, vì thiếu 10 tỷ đôla tương đương 200 ngàn tỷ đồng để chi dụng. Tôi cho ý tưởng ấy là quá mạnh mẽ. Tuy nhiên, người ta có thể nhìn thấy trước những hệ quả dây chuyền sẽ ảnh hưởng trực tiếp lên nền kinh tế và đời sống của người dân cũng như chế độ một khi việc phong toả kinh tế được thực hiện nghiêm túc.
- Đời sống của nhân dân, trong đó có cả thân nhân của những người ở hải ngoại sẽ gặp khó khăn hơn và giá sinh hoạt sẽ tăng cao hơn. Nhưng không thể trở lại cái thời 1977 - 1978. Nhiều mặt hàng sẽ trở nên ế ẩm vì không có người tiêu thụ. Và nhiều mặt hàng cần như điện, điện thoại, xăng dầu... có khi cũng trở thành xa xỉ phẩm.
- Nạn trộm cắp của công và tội phạm sẽ tăng nhảy vọt.
- Nhiều ngân hàng sẽ bị khánh kiệt, phá sản.
- Nhiều khu vực kinh tế tập đoàn sẽ vỡ nợ.
- Ngành địa ốc, khách sạn sẽ hoàn toàn suy thoái.
- Ngành hàng không sẽ khốn đốn.
- Nhiều khu vực sản xuất, tư doanh sẽ đóng cửa, nạn thất nghiệp sẽ tăng cao.
- Nền kinh tế què quặt này sẽ giảm sự thu hút đầu tư vốn từ ngoại quốc.
- Nông nghiệp cũng bị hạn chế.
- Trung cộng và các nhà đầu tư của họ sẽ xâm nhập vào nhiều cơ sở hạ tầng. Nhiều loại giấy tờ, kể cả việc “phát” giấy quốc tịch VN (dĩ nhiên là bán lấy tiền) cho người Tàu xâm nhập cư vào Việt Nam theo chủ trương của Trung cộng sẽ diễn ra như đi chợ.
- Các kế hoạch đầu tư do nhà thầu Trung cộng đấu thầu sẽ trì trệ.
- Các cơ sở kinh tài cho nhà nước hay cho các cá nhân đương quyền nắm giữ tại hải ngoại sẽ lụn bại...
Hẳn nhiên không phải chỉ có bấy nhiêu. Đây chỉ là vài nét vẽ điển hình. Thực tế nó còn ảnh hưởng nặng nề trên nhiều phương diện khác nữa. Và ảnh hưởng của mỗi năm một thêm trầm trọng hơn. Bởi lẽ, ngay năm đầu, nếu cộng sản Việt Nam không nhận được 10 tỷ đôla do người Việt gởi về, không có nghĩa là nền kinh tế Việt Nam chỉ bị thiệt hại có 10tỷđôla mà thôi. Trái lại con số bị thiệt hại có thể nhân lên gấp hai hay ba lần con số 10 tỷ đôla ấy. Lý do:
- Vì không nhận được tiền, người ta phải tiêu vào nguồn vốn của mình đã có.
- Không có nguồn vốn để tạo ra lợi nhuận, sản phẩm.
- Không có nguồn vốn để trao đổi mua bán với ngoại quốc.
- Không có nguồn vốn để cho các ngân hàng nhà nước tung tiền ra đầu tư vào các dịch vụ “quy hoạch”, tạo thêm dân oan. Nạn ăn cắp của công và tham nhũng sẽ tăng nhảy vọt. Làm thâm thủng thêm ngân sách.
- Không có tiền để thuê đầu gấu, xã hội đen đàn áp đồng bào và làm lũng đoạn, rối loạn đời sống của người Việt tại hải ngoại.
- Các nhà đầu tư ngoại quốc không nhìn thấy mối lợi khi tham gia đầu tư vì hàng không có người mua. Và đặc biệt là bị những người Việt tại hải ngoại tẩy chay.
Sang năm thứ hai, con số thiệt hại không phải là gầp hai ba lần, nhưng sẽ là hai ba lần con số hai, ba của năm trước. Như thế, với kế hoạch “cắt ruột đứt lòng này”, đồng bào Việt Nam của chúng ta ở quê nhà sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong một thời gian. Khó khăn hơn thôi, nhưng nạn đói sẽ không xảy ra và có thể cũng không bi đát cơ hàn bằng những năm 1977 - 1978. Tuy thế nó sẽ không kéo dài. Đổi lại, cuộc khủng hoảng kinh tế bó buộc phải xảy ra và cộng sản sẽ sụp đổ. Sau đó, chúng ta dùng số tiền “viện trợ” này một cách hợp lý thì thừa sức xây dựng lại một quê hương tươi đẹp sau một thời gian ngắn.
Chúng ta, những người Việt tại hải ngoại, cũng như những người có nguồn vốn ở Việt Nam có đủ can đảm để làm cuộc bao vây kinh tế để nhận chìm chế độ cộng sản, để đưa đất nước vào cuộc đổi thay trong Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền hay không? Quyết định thành bại là do chính chúng ta. Cộng sản không phải là một con siêu mãnh hổ luôn luôn mạnh mẽ, đủ sức cắn xé đồng bào mình, nếu như chúng không có gì để ăn!
2. Vận động Thông Tin để chuyển hóa xã hội.
(Còn Tiếp)