Chu Chi Nam và Vũ Văn Lâm (Danlambao) - Từ khi xảy ra Hội nghị Thành Đô vào ngày 3 và 4/tháng 9/năm 1990 tới nay, cộng sản Việt Nam không ngừng dâng đất, nhượng biển và qụy lụy Trung cộng. Từ đó có người cho rằng đây là một hội nghị bán nước.
Có phải thế không? Chúng ta cùng nhau xem xét vấn đề.
I) Tình hình thế giới cộng sản trước Hội nghị Thành Đô
- Tình hình tại Liên sô
Tình hình Liên sô trước Hội nghi Thành Đô 1990 là một tình hình: kinh tế thì đổ nát, chính trị thì không những dân, mà chính giới lãnh đạo, từ dưới lên trên, phần lớn hết tin tưởng vào chính quyền, vào đảng Cộng sản. Bắt đầu bằng Brejnev, Tổng bí thư, trước khi chết, đã phải than lên: "Xã hội chủ nghĩa gì mà 1/3 xe chạy ngoài đường là ăn cắp săng của công, 1/3 bằng cấp là bằng cấp giả, công chức đến sở làm việc là đến cho có mặt, sau đó thì đi coi hát hay làm việc riêng." Thêm vào đó, khi Brejnev chết, hai ông già lên thay, vừa bệnh hoạn, vừa chết sớm, Andropov, cầm quyền từ 1983 tới 1984, Tchernenko, lên thay, nhưng chỉ mấy tháng sau thì bệnh nặng, không thể cầm quyền, thực quyền ở trong tay Gorbatchev, cho tới khi Tchernenko chết, Gorbatchev lên ngôi chính thức vào năm 1985.
Gorbatchev nhận một gia tài cộng sản đổ nát, muốn cải tổ, tuy nhiên lúc đầu ông còn thận trọng, chỉ dùng những biện pháp nhỏ, như đưa ra những đạo luật xử phạt mạnh tham nhũng hối lộ, cấm dân nghiện rượu, cấm công chức bỏ giờ làm việc, và đồng thời cho xe đi hốt những người dân chán nản, thất vọng, uống rượu nằm đầy đường, bắt những công chức trong giờ làm việc mà lại có mặt ở những tiệm rượu hay những nhà hát. Nhưng những biện pháp này không đi đến đâu, tham nhũng hối lộ vẫn lan tràn, dân vẫn mất tin tưởng, vẫn uống rượu, không có rượu thì pha chế với alcool để uống, kinh tế vẫn đình trệ. Thêm vào đó, những quốc gia bị Nga hoàng và Lénine sát nhập vào Nga, bắt đầu nổi lên đòi tự trị. Đấy là chưa nói đến những vùng bị đe dọa bởi nạn đói. Đến nỗi Gorbatchev, sợ phải than lên: "Tiếng kêu của song chảo, nồi niêu còn ghê sợ hơn tiếng súng đại bác và xe tăng."
Người xưa có nói: "Họa vô đơn chí. Phúc bất trùng lai" (Tai họa không đến một lần. Phúc không trở lại lần thứ hai). Tình trạng quốc gia xã hội thì đã như vậy, đùng một cái, ngày 25/4/1986, nhà máy nguyên tử Tcherbobyl bị nổ. Đây là nhà máy được Liên sô xây vào năm 1977, khánh thành năm 1983, tại phía bắc thủ đô Kiev của nước Ukraine ngày hôm nay. Nhà máy nguyên tử này nổ ra mới cho dân và thế giới thấy tình trạng tồi tệ của nước Liên sô về hạ tầng cơ sở. Để chữa cháy, ngăn cản phóng xạ thoát ra ngoài, người lính không có một bộ đồ mặc chống phóng xạ, họ phải dùng những chiếc áo mưa. Lúc đầu, cơ quan cấp dưới còn giấu diếm, nhưng sau không thể, phải báo cáo lên cấp trên, tới Gorbatchev.
Từ lúc này Gorbatchev mới thấy không thể dùng những biện pháp cải tổ nhỏ, mà phải cải tổ sâu rộng, nên đã đưa ra:
- Chính sách Trong sáng (Glasnost), cấm cơ quan cấp dưới che giấu sự thật, phải làm những bản tường trình trong sáng, nói lên sự thật.
- Chính sách Tái cấu trúc (Pérestroika), để được như vậy, thì phải tái cấu trúc guồng máy quốc gia, cách chức những công chức tham nhũng hối lộ, bất tài, dựa vào con ông cháu cha mà được lên chức, từ từ thực hiện bầu cử tự do, cho phép đối lập hoạt động, báo chí được quyền nói lên sự thật.
Có người tố cáo Gorbatchev là người của CIA, Cơ quan tình báo Hoa Kỳ, gài vào để làm sụp chế độ cộng sản. Thực ra không phải vậy. Không có một bằng cớ, một tài liệu nào chứng tỏ ông là người của CIA. Ông chỉ muốn cứu và cải tổ một chế độ không thể cải tổ được mà chỉ có thay thế; và con đường ông đi là con đường tất yếu của lịch sử, nếu muốn nghĩ đến dân, đến nước, nếu muốn theo kịp đà tiến bộ của nhân loại.
Thực vậy, căn nhà xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên một nền móng sai lầm là lý thuyết Mác Lê. Marx chủ trương bãi bỏ quyền tư hữu, đấu tranh giai cấp. Bãi bỏ quyền tư hữu có nghĩa là bãi bỏ một nguyên động lực chính thúc đẩy con người làm việc, đưa xã hội cộng sản lâm vào cảnh "Cha chung không ai khóc. Nhà chung không người chăm sóc. Ruộng chung không ai cày." Người dân đến hợp tác xã là để có mặt, làm việc cho lấy có, mang tâm trạng "Ta làm việc nhiều cũng chỉ lãnh lương như người làm ít hay không làm." Đã từ lâu, những máy cày, xe cộ của hợp tác xã, bị bỏ mục nát ở ngoài đồng. Số khoai lang đào được, 1/3 để hư thối ở ngoài đồng, 1/3 hư thối vì chuyên chở và bảo trì không cẩn thận ở trong kho.
Ông Jegor Gaida, người đã từng làm Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng bộ kinh tế thời Tổng thống Boris Eltsine, thì cho rằng sở dĩ có sự sụp đổ của Liên sô là vì khí đốt và dầu hỏa, trong một quyển sách ông viết sau khi không còn tại chức. Theo ông, vào những năm 70, giá khí đốt và dầu hỏa tăng, Liên sô là quốc gia xuất cảng 2 thứ này, nên nguồn thâu nhập tăng. Chính vì vậy mà suốt thời Brejnev làm Tổng bí thư từ năm 1964 tới năm 1983, Liên sô không những chạy đua vũ khí với Hoa Kỳ, làm ông chủ thầu, đặt vũ khí ở những nước đàn em, như Ba lan thì sản xuất tàu thủy, Đông Đức thì sản xuất xe tăng, Tiệp khắc thì sản xuất súng AK47 v.v... Nhưng đến những năm 80, thì giá khí đốt và dầu bắt đầu giảm, khiến phần thu nhập của Liên sô cũng giảm, lôi theo các nước đàn em.
Phần nhận xét này của ông Gaida không phải là không đúng, nhưng nó chỉ là một phần và có tính cách ngắn hạn. Một đế quốc, một triều đại sụp đổ tất nhiên là đến từ nhiều nguyên nhân: nguyên nhân gần, nguyên nhân xa, nguyên nhân trung hạn, nguyên nhân thật xa.
Nguyên nhân sụp đổ thật xa của của Liên sô bắt đầu từ nền tảng triết học của Marx, như trên đã nói là chủ trương bãi bỏ quyền tư hữu.
Nguyên nhân trung hạn đó là tư tưởng của Lénine lập nên nhà nước độc đảng, độc tài, áp dụng lý thuyết không tưởng của Marx, trong những đợt đánh tư bản mại sản, giết chết hết giai tầng trung lưu.
Chính Boris Eltsine, đã từng là người cộng sản, Ủy viên Bộ Chính trị, phải than lên khi ông làm Tổng thống xứ Nga: "Nước Nga đã không còn giai tầng trung lưu, giai tầng năng động và là xương sống của xã hội. Đâu còn những con người tháo vác, chỉ cần tay cầm một con dao lớn, đi vào rừng, rồi tạo nên tất cả, nhà để ở, ruộng để cấy lúa, đất để trồng trọt, không những nuôi sống thân mình, gia đình mình, mà còn những gia đình khác."
Ngoài ra còn nhiều những nguyên nhân khác, như Chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ nhằm đánh cộng sản, dụ Liên sô vào một cuộc chạy đua vũ trang, lâm vào cảnh kẻ nghèo thi đua tiêu tiền với kẻ giàu.
Từ đó mang lại những nguyên nhân gần, tham nhũng, hối lộ, dân mất hết tin tưởng vào Đảng Cộng sản và chính quyền, trước cuộc sống khó khăn, càng ngày càng bế tắc, dân sinh ra nghiện rượu.
Thế giới trước năm 1990 còn bị đè nặng dưới áp lực của Chiến tranh lạnh, gồm 2 khối: Khối cộng sản lãnh đạo bởi Liên sô, mặc dầu có sự tranh quyền của Trung cộng, Khối tư bản dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ. Vì vậy tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Liên sô có ảnh hưởng trực tiếp không những đối với những nước cộng sản, mà còn đến cả thế giới.
Trong khuôn khổ bài này tôi chỉ xin nói về ảnh hưởng của Liên sô đối với Việt Nam, Trung cộng và tất nhiên ảnh hưởng đến Hội Nghị Thành Đô 1990.
II) Tình hình Việt Nam sau khi Lê Duẫn chết vào tháng 7/1986, trước Hội nghị Thành Đô
Có thể nói Lê Duẫn là người cuồng tín theo Liên sô, đúng hơn là theo Brejnev, tự biến Việt Nam thành một con chốt trong bàn cờ tranh hùng tư bản - cộng sản, theo kế hoạch của Brejnev.
Brejnev lên chức Tổng bí thư năm 1964, sau khi hạ bệ Khrouschev, ông này bị chỉ trích là đã mềm yếu trước tư bản vì cho rằng "Tư bản mạnh" chủ trương chính sách hòa hoãn với tư bản, quay về sửa sai chế độ cộng sản. Chính vì vậy mà khi lên ngôi Tổng bí thư năm 1953, chỉ ba năm sau, 1956, Khrouschev tố cáo chính sách tôn thờ cá nhân của Staline, chủ trương bắt tay với Hoa Kỳ, "Chung sống hòa bình", "Nguyên tử phục vụ hòa bình.
Brejnev hoàn toàn chủ trương ngược lại, cho rằng khối cộng sản không yếu như người ta tưởng, khối tư bản không mạnh như người ta nghĩ, mà ngược lại. Vì vậy ông chủ trương quên đi những khó khăn nội bộ, đẩy mạnh cuộc chiến chống tư bản, sau khi chiến thắng tư bản trên toàn thế giới, lúc đó trở về sửa sai cũng không muộn. Brejnev đã đưa ra một chiến lược gồm 2 kế sách: Thượng sách đẩy mạnh công cuộc chống tư bản ở mọi nơi trên thế giới, đưa đến chỗ tư bản phải sụp đổ tất yếu như lời dạy của Marx. Trung sách, nếu không thì chia đôi thế giới lấy trục Sài Gon, Phnom Penh, Bangkok, Kaboul, Moscou làm giới tuyến, bên này phía đông thuộc về công sản, bên kia phía tây thuộc về tư bản.
Chính sách của Brejnev có vẻ hấp dẫn, được đa số trong Trung ương đảng nghe theo, nên có việc hạ bệ Khrouschev vào năm 1964.
Brejnev dùng ba con chốt chính để thực hiện chiến lược của mình: Bên châu Mỹ, Phi châu thì dùng Cuba với Fidel Castro; bên Âu châu thì dùng Đông Đức; bên Á châu thì dùng Việt Nam. Lê Duẫn là con chốt trung thành bậc nhất của Brejnev.
Brejnev sửa soạn thượng sách trong vòng 4 năm và bắt đầu tấn công tư bản, như ở Việt Nam chúng ta thấy có Tết Mậu thân 1968, ở Âu châu và ngay ở Mỹ châu có "Phong trào Hòa bình", những cuộc biểu tình phản chiến, sinh viên xuống đường, đứng đằng sau là những đảng cộng sản, những trí thức thân tả, bên Phi châu thì có những cuộc đảo chính thân cộng sản như ở Ethiopie v.v...
Quả thực lúc đầu có những kết quả ngoạn mục, thế giới tư bản, ngay cả tại Mỹ, có những cuộc biểu tình cả triệu người, thế giới tư bản quả thật bị rung rinh. Tuy nhiên đấy chỉ là kết quả có vẻ ngoạn mục lúc ban đầu, nhưng thế giới tư bản không sụp, mà ngược lại, ngân sách chi phí ra bên ngoài của Liên sô càng ngày càng tăng. Nói như một viên tướng Liên sô lúc bấy giờ: "Những thành quả gặt hái của Liên sô không làm tư bản lay chuyển, mà chỉ là những gánh nặng, những trương mục thêm để Liên sô gửi tiền giúp đỡ."
Thêm vào đó tư bản, đứng đầu là Hoa Kỳ, lại tìm cách khai thác tối đa sự bất đồng giữa Trung cộng và Liên sô. Nên có việc Nixon gặp Mao ở Bắc kinh, ra tuyên bố chung ở Thượng hải năm 1972.
Có người nói, thượng sách của Brejnev được thực hiện trong vòng 8 năm, từ năm 1964 tới 1972, thì chấm dứt, Brejnev phải quay ra thực hiện trung sách, chia đôi thế giới, giữ những gì mình đã gặt hái được.
Chính vì vậy mà có việc Liên sô gửi quân sang xâm chiếm A phú hãn, ký hiệp ước quân sự với Việt Nam và cộng sản Việt Nam gửi quân qua xâm chiếm Căm Bốt năm 1978, để làm giới tuyến cộng sản tư bản Sài Gòn - Phnom Penh - Bangkok - Kaboul - Moscou như vừa nói ở trên.
Người khác lại cho rằng thượng sách được kết thúc vào năm 1975, thực ra là vào ngày 1/8/1975, ngày ký Hiệp ước Helsinski, chỉ sau khi quân đội cộng sản xua quân vào cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam khoảng 3 tháng.
Trong khi cộng sản Việt Nam mù quáng vui mừng "chiến thắng" và còn có người u mê đến nỗi cho rằng trong tương lai sẽ "gửi quân sang giải phóng Hoa Kỳ", không biết gì đến tình hình thế giới và ngay cả tình hình khối cộng sản, thì Brejnev, một chỗ dựa "vững chắc" của Lê Duẫn, đã phải lùi bước, đi từ thế công sang thế thủ ở Hội nghị Helsinki, Phần Lan, họp vào cuối tháng 7, gồm các nước Âu châu cộng thêm Hoa Kỳ và Gia nã đại. Ở Hội nghị này, Brejnev yêu cầu các nước Âu châu cộng với Hoa Kỳ và Gia Nã Đại công nhận: 1) Biên giới sẵn có của Âu châu, nhất là giữa Liên sô, Ba lan và Đức, lấy sông Oder làm ranh giới, vì vào thời Đệ Nhị Thế Chiến, Staline đã chiếm một phần lãnh thổ của Ba lan, và bù lại thì lại lấy một phần lãnh thổ của Đức sát nhập vào Ba lan; 2) Yêu cầu thế giới chấp nhận học thuyết Brejnev, theo đó, những nước dưới sự ảnh hưởng của Liên sô chỉ có độc lập giới hạn và Liên sô có quyền gửi quân đến những nước này nếu cần.
Ngược lại thế giới tự do yêu cầu Liên sô phải mở cửa kinh tế để buôn bán với các nước tự do, không thể phá sóng những đài tự do chuyển vào thế giới cộng sản, phải thả một số tù nhân lương tâm.
Khi tham dự và ký những điều khoản của Hiệp ước Helsinski, có một người tướng của Cơ quan Quân báo Liên sô cho rằng "Liên sô ký Hiệp ước này là đã để cho tư bản chọc thủng phòng tuyến của mình". Điều nhận xét của viên tướng này cho tới ngày Liên sô sụp đổ, quả không sai.
Trở về tình hình cộng sản Việt Nam, vẫn u mê với "Chiến thắng", vẫn nghĩ rằng "Tư bản đang giãy chết", "Cộng sản sẽ toàn thắng trên toàn thế giới", họ vẫn ở kế thượng sách của chiến lược Brejnev, trong khi ông này đã phải lùi về kế trung sách. Chính vì vậy mà cộng sản Việt Nam xua quân sang xâm chiếm Căm Bốt năm 1978 và còn hăm he tiến đánh Thái lan. Tuy nhiên cả Liên sô và cộng sản Việt Nam, một bên thì bị sa lầy ở Căm Bốt, bên kia thì bị sa lầy ở A Phú Hãn.
Đấy là chưa nói đến sự kiện Hoa Kỳ và Trung cộng xích lại gần nhau hơn. Đặng Tiểu Bình đã trở lại chính quyền năm 1976 và 2 năm sau 1978 nắm thực quyền, đã vội vã sang thăm Hoa Kỳ năm 1979, đóng vai một người Hoa Kỳ, đội mũ cao bồi, đi xem đua ngựa. Cùng năm 1979, thì xua quân vượt biên giới "Dạy cho Việt Nam một bài học".
Từ ngày Hội nghị Helsinski tới ngày Brejnev chết, tình hình thế giới cộng sản càng ngày càng xấu đi, tại quốc nội cũng như quốc ngoại.
Quốc nội thì nói chung các nước cộng sản, kinh tế càng ngày càng tồi tệ, dân bất mãn, bỏ nước ra đi như ở Việt Nam, tại Liên sô thì dân sinh ra nghiện rượu; quốc ngoại thì xảy ra tranh chấp Việt-Căm Bốt, Việt-Hoa, Nga-Hoa. Tranh chấp Nga-Hoa trở nên cao độ. Hoa Kỳ lợi dụng tình thế này để chia rẽ thế giới cộng sản.
Brejnev chết là một mất mát lớn với cộng sản Việt Nam, đặc biệt là với Lê Duẫn, người tuân thủ bất cứ một mệnh lệnh gì và sẵn sàng làm con chốt thí thân cho chiến lược của ông này. Brejnev chết đi, tình hình Liên sô cũng không có gì sáng sủa, hai ông già lên thay, Andropov và Tchernenko, trong vòng 2 năm, cho tới khi Gorbatchev kế vị, rồi thế giới cộng sản Liên sô và Đông Âu sụp đổ. Trong thời gian này thì Lê Duẫn của Việt Nam vẫn cầm quyền cho tới tháng 7/1986.
Khi Lê Duẫn chết, người lên kế vị với chức vụ quyền Tổng bí thư là Trường Chinh, vì lúc đó theo thứ tự trong đảng thì đứng đầu là Lê Duẫn, thứ nhì là Trường Chinh, thứ ba là Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ đứng mãi thứ 6. Trường Chinh sang Liên sô 2 lần vào tháng 7, tháng 8, mong được sự chấp nhận của Gorbatchev, vì lúc này Gorbatchev đã lên ngôi. Nhưng ông này không chịu, khuyên những người già nên về hưu, nhường chỗ cho những người trẻ. Lợi dùng tình thế này, Lê Đức Thọ kéo theo Trường Chinh và Phạm Văn Đồng, ba người đều từ chức, về hưu. Nhưng trên thực tế là khi Lê Duẫn chết, con người quyền lực nhất lúc bấy giờ là Lê Đức Thọ, vì con người này mặc dầu đứng thứ sáu, thứ bảy, nhưng nắm giữ chức vụ tổ chức nhân sự trong đảng, có nhiều vây cánh, ác ôn côn đồ, gian manh, xảo quyệt, đầu óc bè phái, gia tộc rất mạnh.
Mặc dầu rút vào trong bóng tối, nhưng Lê Đức Thọ đưa hết tay em của mình vào những chức vụ quan trọng trong đảng và chính quyền:
Nguyễn Văn Linh, người từng là tay em của Thọ trong thời gian ở Trung ương Cục miền Nam, nay lên làm Tổng bí thư. Đây là một con người vô nhân cách, không có lập trường chính trị rõ ràng, gió chiều nào theo chiều ấy, hoàn toàn bị khống chế bởi họ Lê, mặc dầu đảng cộng sản đã đánh bóng con người này, cho rằng đây là con người "Nói và Làm", vì ông có viết báo, lấy bút hiệu là N.V.L., ở báo Nhân dân; hay đây là một con người sáng suốt, bằng cả trăm cả ngàn ngọn nến không kém gì Lê Duẫn. Chúng ta thấy lúc đầu thì Linh chủ trương "Đổi mới", nhưng sau đó lại đàn áp những nhà đối lập không khác chi thời trước. Điều đáng buồn cho Việt Nam là trong thời gian Hội nghị Thành Đô, thì chính con người vô nhân cách, không có lập trường chính trị này làm Tổng bí thư.
Về đảng thì đã là vậy, về chính quyền thì cũng là toàn tay em của Thọ, từ Đỗ Mười làm Thủ tướng, nhưng trước đó, vào thời chiến tranh chống Pháp, là Ủy viên ám sát của đảng ở vùng tả ngạn sông Hồng, gồm một phần Hà Đông, Nam Định, Thái Bình và Ninh Bình, cũng là tay em của Thọ. Thêm vào đó em ruột của Lê Đức Thọ là Mai Chí Thọ (cộng sản thay tên đổi họ) làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, công an. Lê Đức Anh, người dưới quyền của Thọ ở miền nam, được Thọ cất nhắc lên chức Đại tướng, Tư lệnh đoàn quân sang xâm chiến Căm Bốt, được làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; ngay cả Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, là người trong Phái đoàn thương thuyết về Hiệp định Paris 1973, mà Lê Đức Thọ là cố vấn, nhưng là người nắm thực quyền.
Lê Đức Anh là một anh cai phu đồn điền, mà người dân kêu là "Anh chột", là một người ác ôn không kém Thọ, vì đánh phu đồn điền, nên bị nghỉ việc, sau đó theo cộng sản. Vì là đặc trách tổ chức nhân sự của đảng, nên Thọ nắm được hồ sơ này, nhưng giữ kín, để làm một con bài sau này để dễ bề khống chế. Việc này, những người am tường tình hình đảng cộng sản Việt Nam đều biết.
Cũng về đảng, chính những người cộng sản cao cấp và gần Lê Đức Thọ, ai cũng rõ ông này có ba biệt hiệu: "Anh Sáu búa", "Anh Sáu Tú bà" và "Anh Sáu hèn." Anh sáu búa vì Lê Đức Thọ chủ trương dùng búa để đập đầu, giết người thay vì dùng súng đạn. Anh Sáu tú bà vì trong thời gian nắm Trung ương Cục miền Nam sau Lê Duẫn, thì nhiệm vụ chính của Thọ là kiếm gái miền Nam gửi ra miền Bắc để cống hiến cho Bác (tức Hồ Chí Minh) và cho Đảng (tức các ông lớn trong Bộ Chính trị và Trung ương đảng). Anh Sáu hèn vì khi "Chiến thắng miền nam" thì hãnh tiến, vác mặt lên trời, đã ra lệnh trục xuất Đại sứ Pháp, ông Mérillon lúc bấy giờ, ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Sau đó, khi cần, thì sang qụy lụy Pháp, xin Pháp giúp đỡ, viện trợ, đi chữa bệnh, nằm ở nhà thương quân sự của Pháp Val de Grace lúc cuối đời.
Người xưa có câu: "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã" (Trâu thì đi với trâu, ngựa thì đi tìm ngựa), ngay cả Tây phương cũng có câu: "Dis - moi qui tu hantes, je te dirai qui tu es" (Hãy nói cho tôi người anh lui tới, tôi sẽ nói anh là người thế nào.)
Con người Lê Đức Thọ là con người vừa hèn, vừa ác ôn côn đồ, thủ đoạn "Mày theo tao thì mày có tất, nếu không thì tao sẽ giết mày", vì vậy những tay em của hắn, từ Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, và hôm nay còn một người cháu của ông ta là Lê Hồng Anh, vừa mới sang Tàu qụy lụy Tập Cận Bình, những con người này mang tất cả những tật xấu của Lê Đức Thọ, cũng hèn nhát, ác ôn côn đồ, qụy lụy ngoại bang, tinh thần gia tộc, bè phái, không coi thể diện quốc gia, quyền lợi dân tộc ra gì.
Người ta có thể nói từ ngày Lê Duẫn chết tới nay, Việt Nam bị khống chế bởi gia tộc họ Lê, con cháu và tay em. Những vụ ám sát, thủ tiêu như vụ của tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, mà vợ con phải than lên: "Chồng và bố tôi bị người ta đầu độc chết v.v...", tất cả xa gần đều liên quan đến gia tộc này và những tay chân, bộ hạ của nó.
Thực ra thì Lê Đức Thọ họ Phan, tên thực là Phan Đình Khải, người Nam định, có trình độ tiểu học, thời đó gọi là bằng Cao đẳng tiểu học, được Pháp lập ra, vào lúc đầu khi đã ổn định chế độ thuộc địa. Những người có cấp bằng này hoặc đi về làng dạy học, như Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của đảng cộng sản Việt Nam, mà người ta thường gọi là "Ông giáo Phú", hay Nguyễn thị Minh Khai, cũng được gọi là "Cô giáo Khai", và ngay cả Hồ Chí Minh cũng đã từng làm ông giáo làng ở Phan Thiết; những người khác thì đi làm hỏa xa, tức soát vé trên tàu xe lửa, trường hợp của Lê Đức Thọ.
Lê Đức Thọ còn 2 người em, làm tướng, trước và ngay cả sau năm 1975, nhất là từ khi Lê Đức Thọ nắm thực quyền sau khi Lê Duẫn chết. Đó là Mai Chí Thọ, tên thật là Phan Đình Đống, làm đến chức vụ Bộ trưởng Bộ công an. Một người khác tên Đinh đức Thiện, tên thật là Phan đình Dinh, đặc trách về việc tiếp vận hậu cần, tương đương với Bộ trưởng Bộ Tiếp tế Lương thực. Có nguồn tin cho rằng Lê Hồng Anh, đương kim Bộ trưởng Bộ Công An, đặc trách về Ban Bí thư đảng ngày hôm nay, là con của Đinh Đức Thiện. Nguồn tin này không phải không có lý. Một nguồn tin khác cho rằng ngay cả Nguyễn Tấn Dũng, đương kim Thủ tướng hiện nay là con rơi của Mai Chí Thọ, trong thời gian hoạt động ở miền Nam, sau đó đã ra ngoài Bắc, để lại cho Võ Văn Kiệt làm con nuôi. Chính vì vậy, trong thời gian Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng, Mai Chí Thọ làm Bộ trưởng Nội vụ, Nguyễn Tấn Dũng đã lên như diều.
Tất cả những người con cháu, tay em của Thọ đều là những người giống Thọ, đầu óc gia tộc, bè phái rất lớn, sẵn sàng làm bất cứ giá nào để bảo vệ quyền lợi gia tộc và bè phái, dầu hèn hạ, qụy lụy ngoại bang hay ác ôn côn đồ.
Ngày hôm nay, cộng sản vẫn còn nắm quyền, gia đình họ Lê vẫn khống chế, sự thật vẫn bị che giấu, nhưng rồi trong tương lai sự thật sẽ được phơi bày. Như trường hợp Staline ra lệnh giết 20 000 sĩ quan Ba Lan là do Gorbatchev tiết lộ bí mật; gia đình Nga hoàng Nicolas 2 bị giết hại bởi Lénine là do Boris Eltsine không những cho mọi người biết mà còn tổ chức an táng trọng thể.
Thực ra trước khi Lê Duẫn chết, cộng sản Việt Nam cũng biết rõ Liên sô không còn là chỗ tựa vững chắc nữa, không còn là thanh trì cách mạng, "là ngày mai tươi sáng của Việt Nam", nhất là khi Tchernenko chết, tất cả những Tổng bí thư của những đảng cộng sản đều phải sang để dự tang, Gorbatchev nói thẳng với mọi người có mặt rằng: "Liên sô không thể giúp đỡ được nữa. Hiện nay muốn có hàng hóa của Liên sô thì phải mua và trả bằng ngoại tệ hay trao đổi hàng hóa."
Chính vì vậy mà cộng sản Việt Nam đã chạy đôn chạy đáo, không còn sĩ diện quốc gia, dân tộc, đi van lạy các cường quốc.
Lúc đầu là với Mỹ. Ngoại trưởng Việt Nam nhiều lần sang Hoa Kỳ, ban đầu thì còn lên giá, làm cao, tuyên bố: "Hoa Kỳ muốn tái lập bang giao với Việt Nam thì phải bồi thường chiến tranh", sau đó xuống nước, không nói gì đến bồi thường chiến tranh, và tuyên bố: "Nếu Hoa Kỳ muốn tái lập bang giao với Việt Nam, thì Việt Nam sẵn sàng giành mọi ưu tiên cho Hoa Kỳ, ngay cả việc Hoa Kỳ muốn đặt tòa Đại sứ hay Tổng lãnh sự, ở đâu, Việt Nam cũng đều đồng ý."
Tuy nhiên giữa cán cân Trung cộng và Việt Nam, Hoa Kỳ chọn Trung cộng chứ không chọn Việt Nam. Chúng ta phải nhớ là vào cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80, tình hình giữa Việt Nam và Trung cộng rất căng thẳng. Hoa Kỳ muốn đi với Trung cộng để chĩa mũi dùi vào Liên sô, đánh sập Liên sô. Và cộng sản Việt Nam lại là tay em trung thành của nước này.
Muốn đi theo Hoa Kỳ không xong, cộng sản Việt Nam quay sang tìm sự giúp đỡ của Pháp vào những năm 1988-1989, lúc này là lúc Tổng thống Pháp F. Mittérand vừa mới tái đắc cử. Tuy nhiên khả năng tài chính của Pháp hạn hẹp, thêm vào đó Pháp đòi hỏi phải dân chủ hóa chế độ, vì lúc này là lúc những phong trào dân chủ và những cuộc cách mạng dân chủ đã xảy ra ở Đông Âu, nên việc không thành.
Việc Lê Đức Thọ sang chữa bệnh ở Pháp năm 1988, vừa mang ý nghĩa chữa bệnh, vừa mang ý nghĩa chính trị.
Cộng sản Việt Nam không còn con đường nào là hèn hạ, muối mặt, sang qụy lụy Trung cộng, mặc dầu trước đó đã lên tiếng chửi rủa Trung cộng không còn tiếng xấu nào mà không dùng, nào là "Chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh", "Kẻ thù liền đất, liền trời" v.v…
Ai cũng biết người đứng sau nền chính trị Việt Nam và tất nhiên sau Hội nghị Thành Đô là Lê Đức Thọ, Phái đoàn Việt Nam gồm có Nguyễn Văn Linh, đương kim Tổng bí thư, Đỗ Mười, đương kim Thủ tướng, Phạm Văn Đồng, cựu Thủ tướng, cố vấn Phái đoàn. Phía bên Trung cộng, người đứng ngầm đằng sau là Đặng Tiểu Bình, Phái đoàn gồm có Giang Trạch Dân, đương kim Tổng bí thư, Lý Bằng, đương kim Thủ tướng.
Phía Việt Nam thì Lê Đức Thọ bệnh nặng, chúng ta nên nhớ là Hội nghị Thành Đô họp 2 ngày 3 và 4 tháng 9/1990, tất nhiên có những trao đổi trước đó cả tháng nếu không cả năm, thì chỉ hơn một tháng sau Lê Đức Thọ chết vào ngày 13/10/1990.
Phía Việt Nam nghĩ rằng có Phạm Văn Đồng để cân xứng với Đặng Tiểu Bình, nhưng đã lầm. Họ Phạm chỉ là một con người thừa hành, không có nhìn xa trông rộng, bằng chứng là đã ký công hàm bán nước năm 1958, thêm vào đó, đây là một con người cũng vô cùng hèn hạ, nhưng lại đạo đức giả và giỏi đóng kịch, giống như Hồ Chí Minh, nên đã được người cộng sản khen ngợi rằng Phạm Văn Đồng là học trò trung thành của Bác. Con người đạo đức giả này, sau khi họp Thành Đô về còn tỏ ra hối hận.
Về phía Trung cộng, chúng ta thấy Đặng Tiểu Bình, một người lên voi xuống chó, ở chính trường quốc nội cũng như hải ngoại, là một con chó sói già trước một đàn cừu non Việt Nam. Con người này chỉ dùng lý thuyết cộng sản như một phương tiện để phục vụ cứu cánh của mình là chủ nghĩa bành trướng đại Hán, "Mèo trắng, mèo đen không quan trọng, miễn là nó bắt được chuột." Trong khi đó thì cộng sản Việt Nam vẫn "Đánh Mỹ để xây dựng xã hội chủ nghĩa". Chính vì vậy mà ông Nixon đã nói: "Trung cộng chống Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng."
Đó là sơ qua diễn tiến tình hình chính trị, trước khi đi đến hội nghị Thành Đô 1990, về phía Việt Nam. Nhưng về phía Trung cộng thì như thế nào?
III) Tình hình Trung cộng trước Hội nghị Thành Đô
Tình hình Trung cộng gần kề nhất ngày Hội nghị Thành Đô là biến cố Thiên An môn 1989. Đây là một biến cố lớn trong lịch sử cận đại của Trung cộng và của đảng Cộng sản Tàu.
Những cuộc biểu tình ở nhiều thành phố và nhất là ở Bắc Kinh, tại quảng trường Thiên An Môn, từ ngày 15/4 tới ngày 4/6/1989, đã huy động cả triệu người đủ mọi tầng lớp, từ nông dân, công nhân đến sinh viên học sinh, công chức và có cả quân đội, đòi tự do hóa chế độ, chống tham nhũng, cửa quyền, con ông cháu cha của đảng Cộng sản. Phe cải cách lúc đó tiêu biểu là Tổng bí thư Triệu Tử Dương, phe bảo thủ tiêu biểu là Thủ tướng Lý Bằng. Lập trường của Đặng Tiểu Bình vào lúc đầu có vẻ ngả về phe cải cách, sau đó lừng khừng đứng giữa, cuối cùng đã ngả về phe bảo thủ, khi cuộc biểu tình đã không tự kiểm soát nổi, có những phần tử đã lợi dụng căng những biểu ngữ chống họ Đặng. Đấy là chưa nói hình ảnh sinh viên học sinh đã làm quá đà trong thời kỳ Cách mạng Hồng vệ Binh (1964 -1974), đưa bố mẹ, thầy cô ra đấu tố, đưa đến cảnh một người con trai của Đặng Tiểu Bình, khi vệ binh đỏ đến phòng cư xá sinh viên, đã sợ quá, nhảy từ lầu cao xuống đất, gãy xương sống, suốt đời phải đi xe lăn; một biến cố nữa, đó là vợ chồng ông Chu Ân Lai, đương kim Thủ tướng và vợ ông ta, bà Đặng Vĩnh Siêu, một cán bộ lâu năm và rất ảnh hưởng trong Đảng cộng sản lúc bấy giờ, có một người con gái nuôi, dạy nhảy múa ở nhà hát Bắc Kinh, bị đưa đi trại học tập, do chính sắc lệnh của Chu Ân Lai, sau đó những người Vệ binh thân Mao, đã lấy một cái đinh dài đóng vào đầu cô ta, làm cho cô ta chết. Hình ảnh và hành động này ám ảnh không những bà Đặng Vĩnh Siêu, Đặng Tiểu Bình, mà phần lớn giới lãnh đạo Trung cộng lúc bấy giờ.
Vì vậy nên khi quyết định "Dẹp hay không dẹp biểu tình", thì phe bảo thủ đã thắng. Đưa đến hậu quả làm cả ngàn người chết và cả chục ngàn người bị thương. Quyết định đàn áp biểu tình có nhiều người chống đối, trong đó có Tổng bí Thư Triệu Tử Dương, Bộ trưởng Quốc phòng, Tư lệnh quân đội Bắc Kinh. Vì vậy nên phe bảo thủ phải gọi những đoàn quân ở phía tây bắc, từ những vùng Tây Tạng, Tân Cương v.v... về để dẹp biểu tình.
Biến cố Thiên An Môn suýt nữa làm cho nước Tàu nổ tung, ít ra làm 2. Trước đó thì cách mạng Hồng vệ binh đã đưa nước tàu vào cảnh nội chiến, có cơ bị chia ra làm nhiều mảnh.
Từ xưa tới nay, giới báo chí, trí thức và ngay cả giới lãnh đạo tây phương có cái nhìn sai lạc về Tàu.
Đầu thế kỷ thứ 19, thì Napoléon ví nước Tàu như một con hổ đang ngủ, nếu nó thức dậy sẽ làm rung chuyển thế giới. Vào những năm 70, một nhà chính trị, kiêm văn sĩ Pháp, ông Alain Peyrefitte, có viết quyển sách "Quand la Chine s’éveillera..." (1973), (Khi nước Tàu sẽ tỉnh dậy...). Không nói đâu xa, ngay ngày hôm nay, thế giới Tây phương vẫn còn có những cái nhìn sai lầm về Tàu.
Trong khi đó, chính những người Tàu, ngay cả một số giới lãnh đạo, thì ngược lại. Ông Chu Dung Cơ, cựu Thủ tướng Tàu, có nói: "Nước Tàu là một anh khổng lồ, chân bằng đất xét." Cũng một cựu Thủ tướng khác, ông Ôn Gia Bảo, vào cuối năm 2012, giai đoạn chuyển quyền giữa Hồ Cẩm Đào và Tập Cận Bình, thì tuyên bố: "Nước Tàu đang đi vào nguy hiểm của thời kỳ Cách mạng Hồng vệ binh." Sự đấm đá trong đảng, tranh quyền đoạt lợi hiện nay vẫn tiếp diễn.(1)
Tháng 7/2014, một cuộc nghiên cứu, được công bố bởi Hurun Report, về việc tìm hiểu hành vi và thái độ của những người giàu nhất Trung cộng, mà trong đó phần lớn là những gia đình thuộc con ông cháu cha của những người lãnh đạo cao nhất, cho ta thấy: hơn 60% những người được khảo sát thì đã ra nước ngoài hay đã nộp hồ sơ để ra nước ngoài; 85% thì nói họ đã gửi con, người thân thích đến những trường đại học ở ngoại quốc. (Ian Bremmer, "China superpower or superbust", The National Interest Magazine, tháng 11 và 12/ 2013).
Một chính quyền, một quốc gia có thể ví như một cái cây, những người của chính quyền là những người ở dưới gốc cây, hưởng bóng mát của nó, nay tìm cách gửi tiền hay gửi con ra nước ngoài chẳng khác nào đào đất ở gốc cây đổ đi chỗ khác, thì cái cây sớm muộn cũng sẽ bị trốc gốc.
Trong chính trị, sự lầm lẫn về địch thủ, đối phương, ngay cả với bạn, rất nguy hiểm, dẫn đến những hậu quả to lớn khó lường. Tuy nhiên đối với giới lãnh đạo Tây phương, nó có quan trọng, nhưng không có tính cách sống còn, nguy hiểm chết người, hại cả một dân tộc như đối với giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
Có thể nói giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, bắt đầu từ Hồ Chí Minh cho tới ngày nay, có một cái nhìn sai lầm về thế giới cộng sản, nhất là về Trung cộng.
Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên do:
Nguyên nhân sâu xa bắt nguồn ngay từ cuộc đời cá nhân của Hồ Chí Minh. Sau khi rời Việt Nam, đi làm bồi cho một chiếc tàu Pháp, sống lang bạt kỳ hồ, khổ sở ở New York, Luân Đôn, rồi Paris, thiếu thốn khó khăn, được Đệ Tam Quốc tế lượm về nuôi nấng, huấn luyện, được sung sướng. Tất nhiên họ Hồ về cá nhân thì coi tổ chức Đệ tam, nhưng thực tế là Liên sô, như "cha mẹ". Chúng ta thấy, trong thời gian họ Hồ bị tổ chức này thất sủng, vào những năm cuối thập niên 20, đầu 30, vì lúc đó có sự tranh quyền gay gắt giữa Staline và Trotski, mà trước đó họ Hồ làm việc cho Borodine, người thân Trotski, họ Hồ đã bị thất sủng, đã viết thư không biết bao nhiêu lần cho Đệ Tam, xin từng miếng cơm đến tiền trả tiền hotel. Chúng ta có thể thấy những bức thư này dễ dàng trong Tuyển tập Hồ Chí Minh, do chính đảng Cộng sản Việt Nam xuất bản.
Rồi tình hình thế giới thay đổi, Phát xít Moussolini xuất hiện ở Ý năm 1923, ở Đức năm 1933 với Hitler, Đệ tam quốc tế họp kỳ cuối cùng năm 1936, trước khi bị Staline giải tán, đã quyết định thay đổi chiến lược, từ "Đấu tranh giai cấp" sang "Hợp tác giai cấp để chống Phát xít", họ Hồ được dùng lại, và đã cùng phái đoàn cộng sản Tàu, trở về Tàu vào khoảng năm 1938 nhằm sửa soạn cướp chính quyền.
Sau khi cướp được chính quyền thì nay chạy sang Tàu lạy lục xin viện trợ, mai chạy sang Liên sô để xin giúp đỡ.
Ngày hôm nay Cộng sản Việt Nam tâng bốc họ Hồ, đưa ra "Tư tưởng Hồ Chí Minh", nhưng chính ông đã tuyên bố: "Tôi không có tư tưởng gì cả. Tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ. Những con người này không bao giờ sai lầm."
Một con người không có tư tưởng, mà vì hoàn cảnh cứ phải đi xin cầu viện, lúc trẻ thì cho bản thân, lúc lớn thì cho tổ chức, con người này bản chất đã trở thành qụy lụy ngoại bang. Bản chất này đã ăn sâu vào xương tủy của con cháu Hồ tức những lãnh đạo cộng sản Việt Nam sau này. Lê Duẫn, người kế vị trực tiếp Hồ, thì thản nhiên tuyên bố: "Chúng tôi đánh đây là đánh cho Liên sô và Trung cộng." không ngần ngại hy sinh từ thế hệ này đến thế hệ khác để phục vụ lý tưởng cộng sản, nhưng thực tế là phục vụ Nga, Tàu.
Con cháu của Hồ Chí Minh và Lê Duẫn ngày hôm nay, sau Hội nghị Thành Đô năm 1990, đã sẵn sàng chấp nhận khẩu hiệu "Bốn Tốt và Mười sáu Chữ vàng", đưa ra bởi Giang Trạch Dân, nhưng thực tế là dâng đất, nhượng biển, thần phục ngoại bang như cha anh cộng sản Hồ Lê trước đây.
Nguyên nhân gần, đó là thế giới cộng sản Đông Âu, trong đó có Liên sô, "thành trì cách mạng, chỗ tựa vững chắc" của cộng sản Việt Nam từ từ sụp đổ từng mảng một, mà người chứng kiến tận mắt đó là Nguyễn Văn Linh, lúc đó là đương kim Tổng bí thư, Trưởng Phái đoàn của Việt Nam tại Hội nghị Thành Đô.
Từ tháng 9/1989, cả ngàn người Đức, bỏ Đông Đức sang xin tỵ nạn ở Tây Đức. Tháng 10/1989, Honnecker từ chức Chủ tịch đảng Cộng sản Đông Đức. Tháng 11/1989, bức tường Bá Linh, ngăn cách hai nước Đông và Tây Đức, hai thế giới cộng sản và tư bản, sụp đổ. Tiếp theo đó là Tổng bí thư Todor Zhivkov của đảng cộng sản Bulgarie, rồi Tổng bí thư Milos Jakes của đảng cộng sản Tiệp khắc cũng từ chức.
Tháng 12/1989, cuộc cách mạng dân chủ ở Roumanie bùng nổ, vợ chồng nhà độc tài cộng sản Ceausescu, bị hạ bệ, rồi bị tử hình.
Những tình hình đó đã ảnh hưởng và ám ảnh sâu đậm đến giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Đấy là chưa nói đến sự kiện là giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam đến Hội nghị Thành Đô còn mang đầy "mặc cảm tội lỗi" với đàn anh Trung cộng, vì sau khi Trung cộng "dạy cho cộng sản Việt Nam một bài học", như lời tuyên bố của Đặng Tiểu Bình, sau khi viếng thăm Hoa Kỳ vào năm 1979, chiến tranh Việt Trung vẫn tiếp diễn ở biên giới và ở ngoài khơi. Năm 1988, Trung cộng đánh Trường Sa của Việt Nam, chiếm đảo Gạc Ma, mà hiện nay Trung cộng đang thành lập một căn cứ quân sự với những phi đạo cho máy bay, và những cứ điểm để khai thác dầu hỏa, mà cộng sản Việt Nam cứ im thin thít.
Chiến tranh tại biên giới Việt Hoa kéo dài đến tận 1987, 3 năm trước Hội nghị Thành Đô. Theo một số quan sát viên, ngoài những sự đụng độ nhỏ, có 6 trận đánh lớn, vào tháng 7/1980; tháng 5/81; 4/83; 6/85; 12/86; 1/87.
Từ bản chất lệ thuộc ngoại bang, đến mặc cảm "tội lỗi", cộng thêm với những cái nhìn "ếch ngồi đáy giếng" chỉ biết có Liên sô, nay thế giới Liên sô từ từ sụp đổ, phái đoàn cộng sản Việt Nam dự Hội nghị Thành Đô với một tư thế kém cỏi, như những "con cừu non", trước một phái đoàn, mà đứng đằng sau là Đặng Tiểu Bình, một con cáo già, gian manh, xảo quyệt ở mức độ quốc tế, với một tham vọng và ý chí mãnh liệt bành trướng chủ nghĩa "Đại Hán". Tất nhiên những con cừu non đó bị con cáo già ăn thịt là lẽ thường tình.
IV) Diễn tiến của Hội nghị Thành Đô (Hình thức và nội dung)
Thực ra, về nội dung của văn bản Hiệp ước Hội nghị Thành Đô, cho tới ngày hôm nay, một cách chính thức, chưa có ai rõ. Người ta chỉ phỏng đoán qua những việc làm của Cộng sản Tàu và Việt Nam, từ ngày có Hội nghị này cho tới nay.
Chính thức và để có giá trị trên mặt công pháp quốc tế, thì bất cứ hiệp ước quốc tế nào, nhất là liên quan đến biên giới trên đất liền hay trên biển, giữa hai hay nhiều quốc gia, thì phải có sự trong sáng: có nghĩa là phải được công bố, phải có sự phê chuẩn của Quốc hội hay sự chấp nhận của dân qua trưng cầu dân ý và bản hiệp ước đó phải gửi tới cơ quan lưu trữ hồ sơ của Liên Hiệp Quốc. Về Hiệp ước Thành Đô cả Trung cộng và Cộng sản Việt Nam không hành xử theo kiểu này, mà hành xử lén la, lén lút, có tính cách mờ ám chứ không minh bạch, theo cách hành xử của những nước tự do, dân chủ.
Kinh nghiệm cho chúng ta thấy là Công hàm của Phạm Văn Đồng năm 1958. Về phía cộng sản Việt Nam thì giấu diếm dân, về phía Trung cộng thì lập lờ đánh lận con đen qua việc yêu cầu Việt Nam tôn trọng quyền lãnh hải 12 hải lý, rồi công bố bản đồ của Trung cộng, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Thực ra thì không riêng gì Trung cộng và Cộng sản Việt Nam hành động lén lút, giấu dân, mà có thể nói tất cả những chế độ cộng sản, từ chế độ đầu tiên do Lénine thành lập năm 1917.
Lénine, để có được chính quyền, không ngần ngại tuyên bố là sẵn sàng nhượng đất cho Đức, sau đó có cử Trotski đi ký Hiệp ước nhượng đất ở Brest - Listovk, năm 1918, với Đức. Hiệp ước này ít người được biết, trong khi đó dân thì mù tịt. Ngay cả việc Lénine giết toàn gia đình Hoàng gia Nga Nicolas 2, ngày hôm nay người ta cũng không tìm ra một sắc lệnh nào của Lénine, ngoài việc Lénine cử một tay em thân cận, ngày xưa là một chủ ngục và được Lénine thường nói với mọi người rằng đây "là người giỏi nhất trong những người chúng ta", có nghĩa là dám giết người, dám thủ tiêu, xuống chỗ ở của gia đình hoàng gia, rồi một đêm nọ, cùng với mười mấy người có súng, kêu gia đình xuống một cái hầm, đọc một bản án và giết cả gia đình.
Hành động hận thù, lén lút giết người không gớm tay, đó là hành động của giới lãnh đạo cộng sản.
Lê Đức Thọ của Việt Nam, thì tuyên bố: "Mài hận thù để làm bén nhọn đấu tranh." Em của hắn, Mai Chí Thọ, vào năm 1981, lúc này là thế giới cộng sản đã bắt đầu xuống dốc, thì trân tráo, vô liêm sỉ, tuyên bố trước một số trí thức miền Nam phải "đi học tập cải tạo":
"Hồ Chí Minh có thể là một kẻ độc ác; Nixon có thể là một người vĩ đại, người Mỹ có thể đã có chính nghĩa. Nhưng chúng tôi đã thắng và người Mỹ đã bị đánh bại, bởi vì chúng tôi đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một người vĩ đại và Nixon là một kẻ giết người, người Mỹ là những kẻ xâm lược. Yếu tố then chốt đó là kiểm soát được người dân và quan điểm của họ. Chỉ có chủ nghĩa Marx - Lénine là làm được điều đó. Không ai trong các anh (chỉ những người trí thức miền Nam bị đi học tập cải tạo) thấy sự kháng cự đối với chế độ của những người cộng sản, vì vậy đừng suy nghĩ về chuyện đó. Quên chuyện đó đi." (Mai Xhí Thọ - theo lời của Đoàn Văn Toại, trong A Lament for Việt Nam - New York Times Magazine - 29/03/1981).
Chế độ Marx-Lénine mà Mai Chí Thọ nói tới không gì hơn là cai trị dân bằng cái loa, cái còng và cái súng. Cái loa là bưng bít thông tin, che giấu sự thật, rồi dùng cái loa để nói dối dân. Cái còng và cái súng là dọa dân, nếu ai không theo tao thì bỏ tù, hay thủ tiêu.
Tuy nhiên cách cai trị đó đã quá lỗi thời. Thế giới cộng sản Đông Âu sụp đổ, một phần cũng vì lý do đó. Ngày hôm nay những chế độ cộng sản còn lại, với nền văn minh trí thức điện toán, thông tin dễ dàng với những internet, điện thoại cầm tay, đang trên đà sụp đổ cũng là vì vậy.
Trở về Hội nghị Thành Đô, vì không có bản hiệp ước ký kết giữa 2 bên được công bố chính thức, nên người ta chỉ phỏng đoán dựa vào quyển Nhật ký của Trần Quang Cơ, Thứ trưởng Bộ ngoại giao, lời tuyên bố của Nguyễn Cơ Thạch, lúc đầu; sau đó là tài liệu của Weakileaks, Hoàn cầu thời báo cùng một số báo chí khác.
Về Nhật ký của Trần Quang Cơ, phần rõ ràng là phần nói về vụ giải quyết tình hình Cam Bốt: Cộng sản Việt Nam rút quân khỏi nước này, thành lập Hội đồng Hòa giải dân tộc dưới sự lãnh đạo của ông cựu hoàng Sihanouk. Chính ở điểm này, Trung cộng có nhượng bộ. Đó là Trung cộng đòi phải sự có mặt của phe Polpot, nhưng kết cục thì không có. Trần Quang Cơ có nói đến những buổi thương thuyết trước Hội nghị, có nói đến phía Việt Nam đề nghị phía Trung cộng đứng ra lãnh đạo khối cộng sản còn lại, nhưng không nói rõ đề nghị này là thế nào. Có phải để Trung cộng lãnh đạo rồi Việt Nam nhận làm một tỉnh của Trung cộng không? Điều này không thấy trong nhật ký. Người ta chỉ thấy trong một vài tờ báo nói rằng đó là tiết lộ trong 3100 bức điện thư lưu trữ ở Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Vấn đề kiểm chứng thật khó khăn, ngay với cả một số người thông thạo tin tức.
Trong khi đó thì Nguyễn Cơ Thạch, cấp trên, là Bộ trưởng Ngoại giao, không viết nhật ký, không được dự Hội nghị Thành Đô, vì Trung cộng không muốn, lại tuyên bố: "Hội nghị Thành Đô bắt đầu một thời kỳ Bắc thuộc nguy hiểm và lâu dài."
Có người cho rằng để biết nội dung của bản Hiệp ước Thành Đô thì chúng ta chỉ cần xét đến hình thức và hậu quả của nó.
Thực vậy, nếu nói về hình thức thì đây là một hội nghị quốc tế vô cùng nhục nhã đối với Cộng sản Việt Nam. Theo thông lệ, một hội nghị ở mức độ cao như vậy thì phải họp ở thủ đô, nay lại họp ở một thủ phủ một tỉnh bậc trung là Tứ xuyên. Họp 2 ngày mồng 3 và mồng 4 tháng 9, Phái đoàn Việt Nam phải có mặt trước ngày mồng 2 tại Thành Đô, đúng vào ngày Quốc khánh cộng sản Việt Nam. Ép cộng sản Việt Nam làm điều này, Trung cộng muốn nói là Trung cộng không coi Việt Nam là một nước độc lập. Thêm vào đó, phái đoàn Việt Nam phải đi đường bộ để sang họp. Đặng Tiểu Bình dụ để phía Việt Nam chấp nhận họp, đã hứa xuống gặp phái đoàn, nhưng sau đó không xuống gặp và còn tuyên bố khinh bỉ Cộng sản Việt Nam: "Tôi không thèm gặp những phường ăn cháo, đái bát."
Ngày xưa Mặc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống qụy lụy Tàu để giữ ngôi báu, nhưng cũng không đến nỗi hèn mạt như vậy.
Những hành động của cộng sản Việt Nam sau Hội nghị Thành Đô:
Mặc dầu người ta không biết chính thức nội dung của Hiệp ước Thành Đô, vì cả 2 bên Trung cộng và Cộng sản Việt Nam không công bố chính thức nội dung của hiệp ước này. Nhưng những hành động của Cộng sản Việt Nam từ ngày có Hội nghị tới nay quả là hành động bán nước. Bởi lẽ đó có người cho rằng nội dung của Hiệp ước là bán nước cũng không phải là không có lý.
Thật vậy, từ ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tới nay, những hành động của Cộng sản Việt Nam chứng tỏ càng ngày càng đưa Việt Nam vào vòng kiềm tỏa, lệ thuộc Trung cộng về kinh tế, chính trị quốc nội và hải ngoại. Người ta còn nhớ, sau Hội nghị không lâu, Giang Trạch Dân đến viếng thăm Việt Nam, không đến Hà Nội, thủ đô, mà tới Đà Nẵng tắm biển, rồi gọi giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam tới "chầu", kiểu như ngày xưa chầu Thiên hoàng.
Năm 1997, Cộng sản Việt Nam muốn gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế, nhưng Trung cộng không muốn, nên phải từ chối.
Hai hiệp định năm 1999, về vấn đề biên giới và năm 2000 về lãnh hải, mà cộng sản đã ký với Trung cộng, dâng cho Trung cộng cả ngàn cây số vuông về lãnh thổ trong đó có thác Bản dốc và Ải Nam quan, cùng cả 20000 cây số vuông về lãnh hải.
Tiếp theo đó là những hiệp ước nhượng cho Trung cộng khai thác bô xít ở vùng cao nguyên Trung phần, xương sống chiến lược của Việt Nam, rồi nhượng những vùng rừng ở biên giới cùng cho phép Trung cộng lập những khu tự trị ở Việt Nam.
Gần đây Trung cộng đặt giàn khoan dầu HD981 ở trong thềm lục địa Việt Nam, cả thế giới trông đợi phản ứng mạnh mẽ của giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam, nhưng ngoài một vài lời tuyên bố cứng rắn, sau đó đâu lại hoàn đấy, đó là Cộng sản Hà Nội vẫn tiếp tục quỵ lụy Trung cộng, làm cho cả thế giới thất vọng.
Đó là về chính trị, còn về kinh tế thì ngay dù người dân bình thường cũng nhìn thấy rõ là nền kinh tế Việt Nam hiện nay hoàn toàn lệ thuộc Trung cộng. Việt Nam chỉ là một cửa tiệm để Trung cộng thuồn những hàng ô nhiễm, mang độc hại, những hàng giả, bị tẩy chay, sang mang nhãn hiệu Việt Nam để bán trên thế giới.
Nhìn lại quá khứ, suy xét hiện tại, để chẩn đoán tương lai:
Trong những chế độ cộng sản, những giới lãnh đạo cộng sản, không có một chế độ nào, giới lãnh đạo nào mà lại ngây thơ, ngu muội, nhưng lại nghĩ mình là "Đỉnh cao trí tuệ của loài người tiến bộ" như cộng sản Việt Nam. Ngày xưa thì Hồ Chí Minh tuyên bố: "Tôi không có tư tưởng gì cả, tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ."
Lê Duẫn thì nói: "Chúng tôi đánh đây là đánh cho Liên sô và Trung cộng." Ngày nay, sự ngây thơ và ngu muội đó được biểu hiện qua Hội nghị Thành Đô.
Thực ra sự ngây thơ và ngu muội không phải chỉ ở giới lãnh đạo mà ngay ở một số trí thức cộng sản. Đã từ lâu cộng sản Liên sô và Trung cộng đã dùng chủ nghĩa cộng sản như một phương tiện cho mộng xâm chiếm, bành trướng của mình, trong khi đó, giới trí thức cộng sản Việt Nam vẫn nghĩ: "Bên ni biên giới là mình Bên kia biên giới cũng tình quê hương..."
Ngày hôm nay, có người cho rằng một số trẻ Việt Nam mất định hướng, vọng ngoại, đến nỗi “Lên sân khấu để hôn cái ghế ngồi của một tài tử Nam Hàn.” Nhưng họ quên ngày xưa có một số trí thức cộng sản làm những bài thơ ca tụng Lénine, Staline: “Hôn cho anh nền tảng đá công trường, nơi vĩ đại Lénine thường dạo bước”, hay: “Ôi ông Staline, ông mất, đất trời biết không. Thương cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương một, thương ông, thương mười.”
Ngày xưa “hôn chân Lénine, Staline”, ngày hôm nay một số giới trẻ “hôn đít” một tài tử ngoại quốc, ngẫm đi ngẫm lại, mặc dầu là 2 hành động khác nhau, nhưng mang cùng một bản chất.
Hiện nay, nhiều người bàn tán về đề tài “Thoát Trung”, nhưng họ quên rằng điều kiện đầu tiên, ắt có và đủ, để “Thoát Trung”, đó là “Thoát cộng”.
Ngày nào còn chế độ cộng sản, miệng thì hô hào yêu nước, nhưng trên thực tế thì bán nước. Ngày đó không thể thoát Trung, mà trên thực tế là càng ngày càng bị lún xâu vào vòng kiềm tỏa của Trung cộng.
Ngày nào còn đảng cộng sản độc quyền “yêu nước”, độc quyền cai trị dân, không cho dân cất tiếng nói, miệng thì hô hào xã hội chủ nghĩa, công bằng xã hội, nhưng trên thực tế là cướp nhà cửa, ruộng vườn, tài sản của dân, để trao vào tay một thiểu số đảng đoàn cán bộ, làm cho xã hội trở nên vô cùng bất công, ngày đó những hành động như Hội nghị Thành Đô còn tái diễn, không những không thể thoát Trung, mà dân Việt còn không thể ngóc đầu lên được, để phát triển, để theo kịp đà tiến bộ của nhân loại.
Paris ngày 09/10/2014
________________________________________
(1) Xin xem thêm những bài về nước Tàu và Tập cận Bình, trên perso.orange.fr/chuchinam