Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) - Tóm lược: "Chuyến Đò Vĩ Tuyến" là một bài hát do nhạc sĩ Lam Phương viết vào năm 1955 sau khi hiệp định Geneva chia đôi đất nước năm 1954 tại vĩ tuyến 17 bên sông Bến Hải. Bài hát là lời một cô gái đang mong chờ người yêu trên con đò bên bờ sông để đưa chàng qua vĩ tuyến về miền Nam thanh bình trù phú. Qua lời cô gái, tác giả biểu lộ bản chất nhân bản, hiền hòa, yêu thương đồng bào và đất nước của người miền Nam. Với cách diễn tả đặc sắc qua cách phối hợp tả cảnh và tả tình, nhạc sĩ Lam Phương cho thấy tài năng xuất chúng của ông ngay từ lúc còn trẻ tuổi.
*
Nhạc sĩ Lam Phương viết bài "Chuyến Đò Vĩ Tuyến" vào năm 1955, một năm sau khi Hiệp Định Geneva ký chia đôi đất nước. Tôi có dịp nói chuyện với ông trực tiếp tại nhà riêng vào ngày 6 tháng 12 năm 2014 và được ông chia sẻ những mẩu chuyện lý thú về các bản nhạc. Ông cho biết lúc ấy ông đọc tin tức trên báo về việc đất nước chia đôi, buồn về chuyện đó, và có cảm xúc để viết bài "Chuyến Đò Vĩ Tuyến," một tuyệt tác phẩm mà gần sáu mươi năm sau vẫn còn làm rung động hàng triệu trái tim người Việt trên khắp địa cầu.
Sau đây là vắn tắt tiểu sử nhạc sĩ Lam Phương
Nhạc sĩ Lam Phương tên thật là Lâm Đình Phùng, sinh năm 1937 tại Rạch Giá, Kiên Giang. Năm 1958 ông nhập ngũ Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trở về dân sự một thời gian, Lam Phương lại được lệnh tái ngũ. Ông gia nhập đoàn văn nghệ Bảo An, khi đoàn này giải tán, ông tham gia ban văn nghệ Hoa Tình Thương và sau cùng Biệt đoàn Văn nghệ Trung ương cho đến ngày mất miền Nam (Wikipedia 2014a). Ông rời Việt Nam cùng biết bao nhiêu người tị nạn cộng sản vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông sống ở Pháp và sống ở Hoa Kỳ cho tới ngày nay.
Nhạc sĩ Lam Phương viết khoảng hai trăm bản nhạc. Nhiều bài nổi tiếng và rất được ưa chuộng như Kiếp Nghèo, Chuyến Đò Vĩ Tuyến, Tình Anh Lính Chiến, Thành Phố Buồn, Khúc Ca Ngày Mùa, và Chiều Tây Đô.
Nguyên văn lời bài hát "Chuyến Đò Vĩ Tuyến" như sau (Nhạc Việt trước 75).
Đêm nay trăng sáng quá anh ơi
Sao ta lìa cách bởi giòng sông bạc hai màu
Lênh đênh trên sóng nước mông mênh
Bao đêm lạnh lẽo em chờ mong gặp bóng chàng
Vượt rừng vượt núi đến đầu làng
Đò em trong đêm thâu sẽ đưa chàng sang vĩ tuyến
Phương Nam ta sống trong thanh bình
Tình ngát hương nồng thắm bên lúa vàng ngào ngạt dâng
Ơ ... ơi ... hò ...
Giòng sông mơ màng và đẹp lắm
Anh ơi ai nỡ chia đôi bờ để tình ta ngày tháng phải mong chờ
Hò ... hơ .... hò .... hơ ...
Em và cùng anh xây một nhịp cầu
Để mai đây quân Nam về Thăng Long
Đem thanh bình sưởi ấm muôn lòng
Sương khuya rơi thấm ướt đôi mi
Tim em lạnh lẽo như chiều đông ngoài biên thùy
Ai gieo chi khúc hát lâm ly
Như khơi niềm nhớ cuộc từ ly lòng não nùng
Bùi ngùi nhìn cách xa ngàn trùng
Giờ đây anh điêu linh nơi quê nhà đang chìm đắm
Bao đêm thổn thức dưới trăng ngà
Hồn đắm say chờ đón ngày anh về sưởi lòng nhau
Ơ ... ơi ... hò ... hò... ơi … ơi … hò
Ơ ... ơi ... hò ... hò... ơi … ơi … hò
Như đa số các bài hát khác, lời nhạc thường bị sửa đổi, vô tình hay cố ý, và nhiều khi làm giảm hoặc mất hẳn ý nghĩa bài hát. Thí dụ như "anh" (trong "Giờ đây anh điêu linh nơi quê nhà đang chìm đắm") bị sửa thành "em" làm thay đổi hoàn toàn ý nghĩa của bài hát. Tác giả Lam Phương xác nhận với tôi câu đó phải dùng "anh" mới đúng, như được ghi trong bản gốc bài nhạc.
Trong bài này, tôi sẽ trình bày nhận xét về nội dung và hình thức của "Chuyến Đò Vĩ Tuyến." Ngoài ra, như trong các bài viết về âm nhạc trước, tôi sẽ chú trọng thảo luận về các khía cạnh văn chương của lời nhạc. Tôi dùng "khán giả" để chỉ người nghe, người đọc, và người xem.
A. Bối cảnh lịch sử:
Để có thể hiểu rõ ý tưởng trong bài nhạc, ta nên có một chút khái niệm về bối cảnh lịch sử của câu chuyện kể trong bài, và cũng là hoàn cảnh lịch sử đất nước lúc Lam Phương viết bài hát.
Năm 1954, cuộc chiến tranh Đông Dương chấm dứt sau trận Điện Biên Phủ. Hiệp định Geneva được ký kết giữa chính phủ Bắc Việt và Pháp, chia đôi đất nước Việt Nam tại vĩ tuyến 17. Sông Bến Hải, chảy theo vĩ tuyến này và thường được dùng là ranh giới phân chia hai miền Nam Bắc. (Wikipedia 2014b)
Hội nghị Geneva (26 tháng 4, 1954 - 20 tháng 7, 1954) là hội nghị xảy ra tại Geneva, Thụy Sĩ, có mục tiêu tìm cách giải quyết các vấn đề về Đại Hàn và thảo luận sự khả thi đem lại hòa bình cho Đông Dương. Về Đông Dương, hội nghị cho ra một bộ tài liệu gọi lả Hiệp Định Geneva (Geneva Accords). Các thỏa thuận này tạm thời chia Việt Nam thành hai vùng, vùng Bắc cai quản bởi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo chế độ cộng sản, và vùng Nam cai quản bởi Quốc Gia Việt Nam (the State of Vietnam), lúc ấy được lãnh đạo bởi cựu hoàng Bảo Đại (sđd.)
Một bản Tuyên Bố Cuối Cùng của Hội Nghị đề nghị một cuộc tổng tuyển cử vào tháng 7 năm 1956 để tạo ra một quốc gia Việt Nam thống nhất. Bản Tuyên Bố Cuối Cùng này chỉ công nhận sự thỏa thuận và không được chính thức ký kết hoặc bỏ phiếu. Đặc biệt, các đại diện của Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ không chấp nhận bản Tuyên bố này (sđd.)
Hiệp Định Geneva, ra vào ngày 21 tháng 7 năm 1954, thiết lập những điều kiện liên quan tới Việt Nam. Trong các điều kiện này, có phần cho phép dân chúng tự do di chuyển giữa các vùng trong vòng ba trăm ngày. Kết quả là gần một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam và chỉ có một trăm ngàn người Nam di cư ra Bắc năm 1954-1955 (Lind 1999, 149).
Trong khi hầu hết mọi người miền Bắc di cư xuống Nam là thường dân, người trong Nam đi ra Bắc toàn là quân du kích cộng sản và gia đình họ (Huyen 1971, 249; Asselin 2013, 18-19). Số người miền Bắc di cư vào Nam còn nhiều hơn nếu cộng sản không cố gắng cản trở việc ra đi của họ (Asselin 2013, 20; Duiker 2000, 487; Huyen 1971, 248-249; Nixon 1985, 35). Lúc bấy giờ, chương trình cải cách ruộng đất đẫm máu đang diễn ra trên khắp vùng đồng quê miền Bắc. Giới lãnh đạo Bắc Việt biết sự cải cách ruộng đất tác hại sẽ biến các địa chủ và gia đình họ chống lại chính quyền cộng sản. Họ "sợ là nếu Sài gòn mở cuộc tấn công, các địa chủ ở miền Bắc sẽ là đội quân thứ năm hỗ trợ phe địch" (Zhai 2000, 75). Tuy nhiên, họ không muốn hao tổn dân số, một yếu tố quan trọng trong việc bầu cử sau này, và không muốn bị mất mặt. Vì vậy, họ cố cản trở dân đi vào Nam. Chính quyển cộng sản Bắc Việt ngăn cản dân chúng di cư vào Nam bằng nhiều thủ đoạn. Một thí dụ cho thấy sự ngăn cản này là vụ nổi dậy Quỳnh Lưu. Nông dân phản đối "việc từ chối không cho quyền đi vào Nam . . ., và sự trừng phạt nặng nề những người đã cố đi" (Nutt 1970, 3). "[D]ân làng chống đối là họ đã bị các viên chức chính phủ ngăn cản không cho di cư vào Nam" (Duiker 2000, 486-487).
Trong cuộc di cư từ Bắc vào Nam, nhiều gia đình phải phân tán vì nhiều người không muốn rời bỏ quê nhà hoặc ruộng vườn, tài sản. Ngoài ra, có nhiều trường hợp người đi trước và người thân đi sau, nhưng bị cản trở và đành phải bị ở lại khi thời hạn di cư chấm dứt. Bài hát "Chuyến Đò Vĩ Tuyến" nói lên trường hợp đó cho một cặp tình nhân.
B. Bài hát diễn tả bản chất nhân bản yêu thương đồng bào của dân miền Nam qua những biến thể tâm tư cô gái
Bài hát nói về cảnh chia ly của hai người yêu vào thời đất nước bị chia đôi theo Hiệp Định Geneva năm 1954. Hai người dự tính di cư vào Nam trong khoảng thời gian 1954-1955 qui định bởi Hiệp Định Geneva. Cô gái vào Nam trước và chàng sẽ đi sau vì chàng phải mắc bận thu xếp việc ở quê nhà. Theo dự tính, cô gái sẽ ra chỗ hẹn bên bờ sông Bến Hải để đón chàng qua vĩ tuyến vào Nam.
Như trong đa số các tác phẩm nghệ thuật, tác giả mượn lời cô gái và giàn dựng câu chuyện để diễn tả ý tưởng của chính mình. Khán giả dần dần hiểu rõ câu chuyện và những ước mơ của cô qua những lời cô kể lể tâm sự trong lúc chờ người yêu trong con đò bên sông. Bằng ngôn từ giản dị, đơn sơ, nhưng đầy tình cảm, cô gái diễn tả tâm trạng mình. Tác giả không cho biết cô gái có phải là cô lái đò hay không, nhưng chuyện đó không quan trọng. Tuy nhiên, qua tình tiết kể lể trong bài, ta có thể hiểu cô gái chỉ dùng con đò là phương tiện để đưa hai người qua vĩ tuyến vào Nam.
Theo nội dung, bài hát có thể được chia làm ba phần chính: dẫn nhập, cực đỉnh, và kết.
1. Trong phần dẫn nhập, cô gái cho biết hậu cảnh và lý do của chuyến đò:
Vì không biết chắc lúc nào chàng sẽ thu xếp xong mọi việc, cô gái phải hằng đêm ra nơi hẹn, ở đầu làng bên bờ sông Bến Hải. Nàng đã ra nhiều đêm rồi nhưng vẫn không gặp chàng. Đêm ấy, như mọi đêm, nàng ra nơi hẹn để đón chàng qua vĩ tuyến. Nàng nhìn trăng sáng trên trời trong lúc đợi chờ người yêu trên chuyến đò. Giòng sông Bến Hải ngăn chia đất nước lóng lánh ánh trăng bạc màu trong đêm khuya. Màu bạc giòng sông như thể có hai màu của hai miền Nam Bắc, khiến nàng buồn bã than thở về sự cách ly của hai người ("Đêm nay trăng sáng quá anh ơi/ Sao ta lìa cách bởi giòng sông bạc hai màu.")
Con đò nhỏ lênh đênh trên những đợt sóng vỗ nhẹ nhàng trên mặt nước sông. Với chiếc đò con, giòng sông nhỏ trở nên mông mênh bao la. Đã bao đêm rồi, nàng chờ mong gặp chàng trong đêm lạnh lẽo nhưng hình bóng chàng vẫn biệt tăm. Ta không rõ nàng hằng đêm ra sông chờ chàng bao nhiêu đêm, nhưng ta có thể suy đoán qua lời lẽ nhớ nhung, than vã, buồn bã, lo lắng của nàng, chắc nàng đã phải trải nhiều đêm chèo đò ra sông ("Lênh đênh trên sóng nước mông mênh/ Bao đêm lạnh lẽo em chờ mong gặp bóng chàng.")
Nàng biết chàng ở xa xôi nơi quê nhà. Trong lúc trông chờ, nàng tưởng tượng hình ảnh chàng rời quê nhà, lặn lội tới nơi hẹn để gặp nàng. Muốn đến nơi hẹn đầu làng bên bờ sông, chàng phải đi băng rừng, qua núi, vượt qua biết bao nhiêu hiểm trở. Không biết bao giờ chàng sẽ đến, nhưng nàng sẽ đợi chàng trong chuyến đò suốt đêm, đêm này qua đêm khác, để đưa chàng qua vĩ tuyến ("Vượt rừng vượt núi đến đầu làng/ Đò em trong đêm thâu sẽ đưa chàng sang vĩ tuyến.") Hình ảnh chàng vượt rừng vượt núi là một hình ảnh sôi động, chỉ sự cực khổ rời quê nhà để đến nơi hẹn bên sông Bến Hải. Câu "vượt rừng vượt núi" cho thấy sự vội vã và quãng đường xa xôi. Nhưng quan trọng hơn, và tinh tế hơn, nó cũng cho thấy sự bí mật, lén lút, nhất là câu đó được nối tiếp bởi "đêm thâu sẽ đưa chàng sang vĩ tuyến." Cuộc hẹn vào ban đêm cho thấy chuyến đi đó là một chuyến đi bí mật, tránh né tai mắt của người cầm quyền miền Bắc. Tại sao?
Như đã trình bày trong phần "Bối cảnh lịch sử" ở trên, chính quyền cộng sản Bắc Việt cố tìm cách ngăn trở dân miền Bắc di cư vào Nam, và nhiều khi còn trừng phạt những người đã cố đi. Dựa vào lời cô gái và bối cảnh lịch sử này, ta có thể hiểu chàng trai là thành phần bị chính quyền cộng sản cố cản trở đi vào Nam. Do đó, họ phải hẹn gặp nhau ban đêm, và chàng phải lặn lội đường xá xa xôi trong lúc tránh né chính quyền.
Nàng sẽ đưa chàng qua vĩ tuyến và cả hai sẽ ở miền Nam. Nàng đã sống trong miền Nam và biết cuộc sống thanh bình, với đồng ruộng phì nhiêu, tình người nồng ấm bên hương thơm lúa vàng ngào ngạt dâng khắp nơi ("Phương Nam ta sống trong thanh bình/ Tình ngát hương nồng thắm bên lúa vàng ngào ngạt dâng.")
2. Trong phần cực đỉnh, cô gái dùng câu hò và ngân dài để duy trì một hình ảnh huy hoàng trong óc khán giả:
Trước khi đưa đến cực đỉnh, Lam Phương dùng một cách chuyển tiếp tuyệt diệu. Đó là câu hò ngắn gọn "ơi... ơi... hò" theo thể cách tiếng hò miền Nam. Tiếng hò Miền Nam là cách diễn tà tâm tình đặc thù của dân miền Nam. Dân miền Trung và miền Bắc cũng có các lối diễn tả tương tự, nhưng lối hò miển Nam có nhiều sắc thái chú trọng vào tâm tình riêng tư mà không nhất thiết phải là cuộc đối đáp giữa trai gái hoặc lời thúc giục chèo thuyền, cày cấy, làm ruộng. Lam Phương dùng "ơi ơi hò" để chuyển hình ảnh ruộng đồng phì nhiêu thanh bình sang giòng sông mơ màng và lời than tiếc cho ai nỡ chia đôi hai bờ sông. Bằng cách dùng câu hò ngắn gọn, ngay sau câu mô tả cảnh thanh bình, tình người nồng thắm, và ruộng lúa phì nhiêu ở miền Nam, tác giả tô thêm một nét chấm phá làm nổi bật bức tranh miền Nam hiền hòa đẹp đẽ.
Dưới ánh trăng thanh, con đò lắc lư theo làn sóng êm ả, giòng sông bao la tỏa ra nét đẹp mơ màng. Nàng khắc khoải tâm tư, buồn thương sao số phận nước non bị ai chia cắt khiến hai người phải xa nhau, mong chờ hội ngộ qua bao nhiêu tháng ngày ("Giòng sông mơ màng và đẹp lắm/ Anh ơi ai nỡ chia đôi bờ để tình ta ngày tháng phải mong chờ.") Ta nhận ra lời nhẹ nhàng "ai nỡ chia đôi bờ" trách móc những người đã tạo ra cảnh đất nước chia ly. Lam Phương, như hầu hết các nhạc sĩ miền Nam trước 1975, ít khi bày tỏ lời nặng nề về cuộc chiến. Tác giả biểu lộ tính chất hiền hòa, ưa chuộng thanh bình của dân miền Nam, với lời than tiếc "ai nỡ" là cái nhận xét khách quan về tình trạng lúc ấy. Tâm tình cô gái còn được biểu lộ một cách chân thành qua "để tình ta ngày tháng phải mong chờ." Người nghe có thể hơi thất vọng cho lòng ích kỷ của cô gái, chỉ buồn bã vì tình yêu mình phải bị chờ mong. Nhưng ngay sau đó, Lam Phương tiếp tục dùng chiếc đũa thần của câu hò miền Nam để đưa đến lời ước vọng thầm kín của cô.
Cô gái biến tình trạng buồn của sự chia cách mong chờ thành một điểm tích cực, lạc quan. Tuy xa cách khoảng cách, mối tình hai người vẫn thắt chặt gần gũi, và mối tình đó là một nhịp cầu nối liền hai miền. Trong phần tột đỉnh của bài hát, tác giả cho thấy niềm lạc quan và ước vọng thầm kín của nàng đi xa hơn mối tình giữa hai người. Nàng mơ đến ngày quân miền Nam trở về kinh đô miền Bắc để đem thanh bình cho toàn dân ("Hò... hơ... hò... hơ... Em và cùng anh xây một nhịp cầu/ Để mai đây quân Nam về Thăng Long/ Đem thanh bình sưởi ấm muôn lòng.") Lam Phương chuẩn bị cho cái tột đỉnh này một cách kỳ diệu. Ông đi từ lời than tiếc cho cảnh chia đôi, nói lên lòng thương tiếc cho mối tình cá biệt, rồi chuyển tiếp qua câu hò "hò... hơ... hò... hơ... " đưa đến lời xác nhận hai người xây nhịp cầu và đạt cực đỉnh với lời mong ước "quân Nam về Thăng Long" để đem thanh bình cho đất nước.
Như sẽ được trình bày sau, cách dùng một khía cạnh đặc thù (tình yêu vị kỷ) để đưa đến một hình ảnh bao quát (đất nước thanh bình) là một kỹ thuật tuyệt vời. Điểm chính yếu của đoạn này là cách dùng câu hò và phần kéo dài giọng. Ngoài câu hò nhẹ nhàng êm ái ngắn gọn, tác giả còn tạo tác dụng mạnh mẽ trên người nghe qua phần kéo dài thể hiện bằng ba dấu lưu trên ba nốt tương ứng với ba chữ "đây," "ấm," và "lòng" trong câu "để mai đây quân Nam về Thăng Long/ Đem thanh bình sưởi ấm muôn lòng." Ta biết dấu lưu cho ca sĩ tự do kéo dài chữ và ngân theo hơi sức hoặc ý muốn diễn tả của mình. Bằng cách dùng phần kéo dài, Lam Phương muốn hình ảnh quân Nam về Thăng Long tồn tại lâu trên óc khán giả.
Tại sao ông muốn hình ảnh đó tồn tại lâu dài trong óc khán giả?
Đó là vì hình ảnh đó là hình ảnh huy hoàng và là cực điểm của bài hát. Có ba khía cạnh huy hoàng của nhóm chữ "quân Nam về Thăng Long."
Trước hết, Lam Phương dùng Thăng Long thay vì Hà Nội. Ông cho tôi biết đó là để có vần điệu (có thể đi với "muôn lòng") và cũng gợi ý lịch sử. Theo tôi nghĩ, lý do gợi ý lịch sử mạnh hơn. Nếu vì vần điệu mà thôi, ông vẫn có thể sửa lại giai điệu để cho một nốt trầm hợp với Hà Nội, hoặc dùng Hà Thành cho giữ vần bằng. Nhưng Hà Nội hoặc Hà Thành không cho thấy hình ảnh lịch sử mạnh mẽ bằng Thăng Long.
Thứ nhì, với "quân Nam," Lam Phương tái xác nhận khía cạnh lịch sử và các chiến thắng vinh quang trong quá khứ. Ta biết từ lúc Việt Nam mở mang bờ cõi xuống miền Nam từ thời chúa Nguyễn, đã có hai lần "quân Nam" vinh quang tiến ra Thăng Long, đánh dẹp quân Bắc. Năm 1786, Nguyễn Huệ, sau khi lấy Phú Xuân của nhà Nguyễn đang bị quân chúa Trịnh chiếm đóng, tiến quân ra Thăng Long dưới chiêu bài "Phù Lê Diệt Trịnh" và tiêu diệt chúa Trịnh, phục hồi nhà Lê. Năm 1802, quân Nam của Gia Long Nguyễn Ánh, truy đuổi quân Tây Sơn và ra Thăng Long chiếm lại Bắc Hà, thống nhất đất nước.
Thứ ba là khía cạnh quan trọng nhất. "Thăng Long" và "quân Nam" vẽ ra hình ảnh lịch sử huy hoàng và gợi ý một chiến thắng vẻ vang. Nhưng Lam Phương còn có một phép lạ huy hoàng gấp trăm lần hơn thế nữa. Đó là chữ "về." Chỉ một chữ đó thôi, ông đã lột trần tính chất nhân bản của dân Việt và tình yêu thương đồng bào. Tại sao? Để hiểu lý do, ta hãy hỏi: Tại sao "quân Nam" ở trong miền Nam lại có thể trở "về" "Thăng Long" ở miền Bắc? Ở trong Nam chỉ có đi "ra" Bắc, chứ làm sao "về" được? Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Bắc Hà thường được gọi là Đàng Ngoài và Nam Hà thường được gọi là Đàng Trong, có sự phân chia rõ ràng. Vậy tại sao "về"? Chuyện đó chỉ có ý nghĩa nếu quân Nam thực ra cũng là quân Bắc, hoặc nói rõ hơn, không có Nam Bắc phân chia mà cả hai miền đều thuộc về một nước. Vì vậy, tuy quân Nam "ra" Thăng Long, thực ra là "về" lấy lại đất nước của toàn dân, và do đó mới có thể "đem thanh bình sưởi ấm muôn lòng."
Còn gì kỳ diệu hơn?
Có thể sẽ có người nói Lam Phương bắt buộc phải dùng chữ "về" vì đó là thanh huyền phù hợp với giai điệu, trong khi "ra" là thanh không dấu. Tuy nhiên, ông vẫn có thể sửa lại giai điệu và dùng nốt thích hợp. Ông cho tôi biết ông không viết nốt nhạc, sắp xếp giai điệu trước rồi mới đặt lời, mà hai việc đó xảy ra song song. Nếu không kiếm được lời thích hợp, ông sẽ phải sửa lại nốt nhạc hoặc sửa lại giai điệu, và ngược lại. Do đó, nếu ông muốn nói "quân Nam ra Thăng Long," ông chỉ cần sửa lại giai điệu, vả có thể sắp xếp nốt nhạc để câu đó được viết lả "quân Nam tiến ra Hà Nội," "quân Nam Bắc tiến," "quân Nam đến Hà Nội," v.v... Ngoài ra, ông vẫn có thể dùng những chữ thanh huyền khác như "vào."
Cũng sẽ có người cho rằng Lam Phương không suy nghĩ tỉ mỉ như tôi phân tách và viết lời nhạc chỉ vì nghe xuôi tai. Câu đó chỉ đúng một phần. Tôi không nghĩ Lam Phương suy nghĩ nhiều ngày cho câu đó, mà chắc chỉ viết ra trong giây phút tự phát. Nhưng như tôi đã trình bày trong các bài trước, chính cái tự phát, không suy nghĩ đắn đo, là sự biểu lộ chân thật nhất, và cái biểu lộ đầy ý nghĩa thần thoại đó mới thực sự cho thấy cái thiên tài của Lam Phương.
Hầu hết những hành động hoặc ý tưởng thiên tài hoặc cao cả tạo tác dụng vĩ đại không do công trình luyện tập dầy công cho cái tác dụng đặc thù đó, mà do những ý tưởng được hun đúc cho một bình diện bao quát hơn, và thường có sẵn hoặc tiềm tàng trước đó. Một người mẹ sẵn sàng hy sinh tính mạnh mình che phủ thân hình đứa con trong cơn bom đạn không phải vì bà được huấn luyện cho việc đó mà là vì lòng thương con đã có sẵn. Một người anh hùng liều mạng chạy vào căn nhà cháy để cứu những nạn nhân xa lạ không phải là vỉ người đó được huấn luyện cho việc cứu người trong hỏa hoạn, mà vì lòng nhân đạo và can đảm đã đúc kết từ lâu. Tương tự, bản tính chân thật, lòng nhân bản, tình yêu thương đồng bào và đất nước của Lam Phương không phải chỉ được hình thành qua một câu trong lúc ông viết bài nhạc, mà đã được hun đúc tiểm tàng trong tâm trí ông và là phần của con người ông, để trong một giây phút tự phát, ông diễn tả cái tình người đó qua một câu bất hủ để đời: "để mai đây quân Nam về Thăng Long, đem thanh bình sưởi ấm muôn lòng."
Một điểm nổi bật của câu này hỗ trợ mạnh mẽ cho tính chất nhân bản vị tha của dân miền Nam là nhóm chữ "đem thanh bình sưởi ấm muôn lòng." Khác hẳn với tính chất hiếu thắng, tàn bạo của cộng sản Bắc Việt núp dưới bóng ngoại bang Tàu cộng và Liên Xô, quân Nam không về Thăng Long để tiêu diệt những kẻ thống trị tàn ác hoặc tà quyền, ngụy quân, mà chỉ đem lại thanh bình ấm no cho toàn dân.
3. Trong phần kết, cô gái bày tỏ nỗi lo âu nhưng vẫn giữ niềm tin và lạc quan:
Trở về câu chuyện, sau khi mơ ước quân Nam về Thăng Long, cô gái khắc khoải ngóng trông chàng khi màn đêm dần tàn, để mặc những giọt sương đêm rơi đọng trên mi mắt. Nỗi cô đơn thiếu bóng chàng khiến tim nàng lạnh lẽo như buổi chiều mùa đông nơi biên ải xa xôi ("Sương khuya rơi thấm ướt đôi mi/ Tim em lạnh lẽo như chiều đông ngoài biên thùy.")
Trong đêm khuya thanh vắng, có tiếng ai hát bài ca buồn thảm, khiến nàng chạnh nhớ ngày hai ngưởi chia tay nhau trước khi nàng vào Nam ("Ai gieo chi khúc hát lâm ly/ Như khơi niềm nhớ cuộc từ ly lòng não nùng.")
Thế rổi, như mọi đêm trước, vẫn không thấy bóng dáng chàng trong đêm tối chập chùng, núi non trùng điệp, nàng bùi ngùi thương xót lo lắng cho người yêu chắc đang gặp khốn khó nơi quê nhà ("Bùi ngùi nhìn cách xa ngàn trùng/ Giờ đây anh điêu linh nơi quê nhà đang chìm đắm.") Tại sao nàng có ý nghĩ người yêu đang bị điêu linh nơi quê nhà? Vào khoảng thời gian đó, chiến tranh hai miển chưa bùng nổ, vì hiệp định Geneva mới được ký và Ủy Ban Quốc Tế đang giám sát cuộc ngừng bắn. Do đó, "điêu linh" đây không thể ám chỉ tai họa chiến tranh. Nhưng ta hiểu cuộc sống người dân dưới chế độ cộng sản rất khổ cực cả về tinh thần lẫn vật chất. Cuộc sống con người như bị "chìm đắm" trong ngục tù bùn lầy. Cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu đang xảy ra khấp nơi trên các vùng đồng quê miền Bắc lúc ấy, dẫn đến cuộc thảm sát 172.008 người. Ngoài ra, như trình bày ở trên, chính quyền cộng sản cố ngăn cản dân miền Bắc di cư vào Nam và trừng phạt những người cố gắng ra đi. Do đó, khi không thấy người yêu đến nơi hẹn qua suốt bao nhiêu đêm, cô gái lo âu và nghĩ chàng đang bị khốn khó khi đang tìm đường ra đi.
Đêm này cũng như bao đêm khác, chàng vẫn không đến, khiến nàng buồn bã thổn thức dưới ánh trăng trắng ngà. Nhưng nàng vẫn không nản chí, và thả hồn mơ đến ngày hội ngộ với người yêu để sống bên nhau trong tình ấm ("Bao đêm thổn thức dưới trăng ngà/ Hồn đắm say chờ đón ngày anh về sưởi lòng nhau.") Tại đây, ta thấy lại lần nữa tình yêu thương đồng bào, không phân biệt Nam Bắc khi tác giả dùng chữ "về" trong "chờ đón ngày anh về sưởi lòng nhau." Câu này xác nhận chữ "về" trong "quân Nam về Thăng Long" không phải là chữ chọn lựa chỉ để nghe xuôi tai hoặc thuận vần điệu. Đối với tác giả, nơi nào trên đất nước cũng là quê nhà, và do đó cho dù anh ở Bắc vượt vĩ tuyến để vào Nam, anh cũng "về" quê nhà sưởi ấm lòng nhau.
Qua lời cô gái kể lể tâm sự, khán giả thương cô gái, nỗi cô đơn, ước vọng, và mối tình cách chia của cô. Mối tình đó lồng trong một mối tình cao cả hơn là tình yêu quê hương và đồng bào. Khán giả cảm nhận nỗi cô đơn lắng đọng trong màn đêm, đi theo những biến thể của tâm trạng cô gái, qua cực đỉnh hy vọng cho một vinh quang thanh bình cho toàn dân, và sau cùng ước mơ cho ngày xum họp với người yêu. Giai điệu và tiết tấu làm nổi bật ý tưởng thêm. Trong phần dẫn nhập và kết, giai điệu êm ái, điều hòa, nhịp nhàng, tiết tấu trung bình, thích hợp cho kể lể tâm tình. Trong phần cực đỉnh, giai điệu thay đổi, tiết tấu chậm, cộng thêm với câu hò, tạo tác dụng mạnh trên khán giả.
C. Câu chuyện được diễn tả qua kỹ thuật phối hợp tả cảnh và tả tình thật đặc sắc:
Bài hát "Chuyện Đò Vĩ Tuyến" là lời kể lể tâm trạng của cô gái mong chờ người yêu đến để cùng nhau đi trên chuyến đò qua vĩ tuyến vào Nam. Câu chuyện được diễn tả linh động, đầy tình cảm, và hiệu quả qua các kỹ thuật diễn tả độc đáo.
1. Tác gỉả phối hợp tả cảnh và tả tình với kỹ thuật táo bạo nhưng thật hữu hiệu:
Lam Phương kể câu chuyện qua lời cô gái với những sắc thái nổi bật của tả cảnh và tả tình.
Trong tả cảnh, ông phối hợp màu sắc, không gian, thời gian, và các giác quan một cách chặt chẽ. Ông dùng màu sắc linh động vẽ ra hình ảnh cảnh đêm khuya (màu bạc của nước sông lóng lánh dưới ánh trăng sáng, màu ngà của trăng đêm), cảnh đồng ruộng phì nhiêu (màu vàng của lúa chín). Những yếu tố không gian (mông mênh, vượt rừng vượt núi, đầu làng, phương Nam, biên thùy, ngàn trùng, quê nhà) được liên kết chặt chẽ với thời gian (đêm nay, đêm thâu, chiều đông, bao đêm). Chỉ trong một đêm, ông đưa khán giả qua toàn thể đất nước Việt Nam, khởi đầu với trăng sáng trên trời, xuống con đò nhỏ lênh đênh trên giòng sông Bến Hải, chuyển đột ngột sang quê nhà chàng đi qua rừng núi tới nơi hẹn ở đầu làng, lân la qua khắp miền Nam đầy lúa vàng, trở về thủ đô Thăng Long, rồi lan rộng ra nơi biên thùy xa xôi, cuối cùng trở về con đò dưới trăng ngà. Lam Phương tinh tế đưa người nghe chìm vào cảnh tượng qua những giác quan: xúc giác (lạnh lẽo, sưởi ấm, thấm ướt, sưởi lòng), thị giác (trăng sáng, bạc hai màu, nhìn... ngàn trùng), thính giác (khúc hát, thổn thức), và khứu giác (ngát hương, ngào ngạt).
Trong tả tình, ông biểu lộ tâm trạng cô gái qua những giai đoạn trong lúc chờ người yêu: than thở ("sao ta lìa cách"), mong mỏi ("chờ mong gặp bóng chàng"), sôi nổi ("vượt rừng vượt núi"), vui tươi ("sống trong thanh bình"), trách móc ("ai nỡ chia đôi"), hy vọng ("xây một nhịp cầu," "quân Nam về Thăng Long," "đem thanh bình"), cô đơn ("tim em lạnh lẽo"), nhớ nhung ("khơi niềm nhớ"), buồn bã ("não nùng," "bùi ngùi," "thổn thức"), lo âu ("anh điêu linh"), mơ mộng ("đắm say"). Chỉ trong một đêm mà tác giả diễn tả đủ mọi tâm trạng của cô gái với những cường độ tình cảm khác nhau. Khán giả được đưa qua những biến thể của tâm trạng này, không ý thức rõ rệt mà chỉ cảm thấy một nỗi buồn nhẹ nhàng len lỏi qua những bức chụp (snapshots) của cảnh tượng cô gái chờ người yêu trên con đò vào đêm khuya. Khán giả không bị ngộp thở bởi những hình ảnh cụ thể liên tiếp và cũng không bị nhàm chán qua những lời kể lể tâm tình. Lam Phương đạt được tác dụng này qua cách phối hợp hoàn hảo giữa "cho thấy" và "kể" như được trình bày sau đây.
Trong các bài trước, tôi nhấn mạnh kỹ thuật "cho thấy, đừng kể" và "kể, đừng cho thấy" trong việc diễn tả cảnh tượng. "Kể" và "cho thấy" phải được dùng một cách cân bằng, và tùy vào hậu quả của tác dụng. Có những cảnh được diễn tả linh động và lôi cuốn qua "cho thấy" và có những cảnh được diễn tả hữu hiệu qua "kể." Với câu chuyện cô gái chờ người yêu trên con đò bên bờ sông vào đêm khuya trong bối cảnh đất nước chia đôi, cách diễn tả nào hay hơn? Lam Phương cho ta câu trả lời: cả hai.
Nhưng cả hai bằng cách nào? Lam Phương dùng một kỹ thuật táo bạo: luân phiên. Đó là kỹ thuật sắp xếp "cho thấy" và "kể" luân phiên nhau một cách mạch lạc, có thứ tự, đi từ cảnh tượng này sang cảnh khác một cách nhịp nhàng. Tại sao táo bạo? Kỹ thuật này có điểm nguy hiểm là cách diễn tả tổng quát có vẻ giả tạo, mưu mẹo, và người nghe có cảm tưởng bị lôi kéo dưới mánh khoé của tác giả và dễ có ác cảm. Nhưng Lam Phương tài tình tránh né cái nguy hiểm đó bằng cách dàn xếp các cảnh theo một thứ tự tự nhiên, từ tốn, đưa lên cực điểm, rồi đi xuống nhẹ nhàng.
Hình 1 minh họa các câu trong ca khúc với "cho thấy" và "kể" luân phiên nhau. Màu vàng là "cho thấy" và màu xanh dương là "kể."
Ta nhận ra kiểu luân phiên không theo một mẫu cố định mà có những biến thể. Thí dụ "Em và cùng anh xây một nhịp cầu" và "Để mai đây quân Nam về Thăng Long" là hai câu "cho thấy" liên tiếp; "Đò em trong đêm thâu sẽ đưa chàng sang vĩ tuyến" và "Phương Nam ta sống trong thanh bình" là hai câu "kể" liên tiếp. Bằng cách thay đổi nhịp luân phiên này, Lam Phương tránh cơ chế máy móc và tạo thêm phần sống động.
Mỗi câu không hoàn toàn là "cho thấy" hoặc "kể." Vài câu "cho thấy" có chút "kể" và vài câu "kể" có chút "cho thấy." Thí dụ câu "Sao ta lìa cách bởi giòng sông bạc hai màu" là câu kể (lìa cách) nhưng có chút "cho thấy" qua ẩn dụ "hai màu"; câu "Giòng sông mơ màng và đẹp lắm" là câu "cho thấy" (mơ màng) nhưng có chút "kể" (đẹp). Bằng cách pha lẫn chút "cho thấy" trong câu "kể" và ngược lại, Lam Phương làm tăng sự tự nhiên trong cách diễn tả, và giúp người nghe hòa nhập vào tâm tư cô gái một cách dễ dàng vì có sự chuyển tiếp.
Ta thấy các câu luân phiên này gia tăng cường độ cho đến cực đỉnh (khung đỏ trong Hình 1). Sau đó, cường độ giảm xuống và nhẹ nhàng trôi đi và lên cao một chút lúc hết. Các cường độ tình cảm này như sau:
Than thở → Mong mỏi → Sôi nổi → Vui tươi→ Trách móc → Hy vọng (cực điểm) → Cô đơn → Nhớ nhung → Buồn bã → Lo âu → Mơ Mộng
Cách xếp đặt những biến thể của tâm tư cô gái rất tinh tế và khán giả không nhận ra rõ rệt, nhưng cảm nhận được một cách nhẹ nhàng nhờ sự chuyển tiếp chậm chạp. Ngay cả khi được dẫn lên đến cực đỉnh, khán giả không thấy cái kích thích mạnh mà chỉ biết lâng lâng trong một nỗi niềm đê mê. Chỉ đến khi sang đoạn kết, với câu "Sương khuya rơi thấm ướt đôi mi" trở lại phiên khúc kể lể tâm tình, khán giả mới hoàn hồn, đắm chìm theo lời cô gái, để cơn đê mê đó vương vấn theo sau.
Lam Phương còn dùng một kỹ thuật đặc sắc rất khó thực hiện. Đó là liên kết tả cảnh và tả tình đồng bộ (synchronously) với "cho thấy" và "kể." Khi tả cảnh, ông "cho thấy," và khi tả tình, ông "kể." Thí dụ, câu "Đêm nay trăng sáng quá anh ơi" tả cảnh,và ông cho thấy "trăng sáng"; câu "Sao ta lìa cách bởi giòng sông bạc hai màu" tả tình và ông kể "lìa cách"; câu "Lênh đênh trên sóng nước mông mênh" tả cảnh, và ông cho thấy "lênh đênh," "mông mênh"; câu "Bao đêm lạnh lẽo em chờ mong gặp bóng chàng" tả tình, và ông kể "bao đêm," "chờ mong."
2. Kỹ thuật chuyển tiếp từ đặc thù sang bao quát và tương phản tạo tác dụng mạnh trên khán giả:
Một kỹ thuật đặc sắc mà Lam Phương dùng trong việc diễn tả cảnh tượng, tình cảm, và tâm trạng cô gái là cách chuyển từ hình ảnh đặc thù sang hình ảnh bao quát, tương phản với hình ảnh đặc thù. Kỹ thuật này rất hiệu quả để trình bày ý tưởng một cách chậm chạp và tránh những cảnh hoặc lời đột ngột mà khán giả không kịp chuẩn bị. Quan trọng hơn, kỹ thuật này có tác dụng mạnh trên khán giả vì khán giả dễ bị lôi cuốn vào sự tương phản hơn là sự tương tự. Thí dụ, nếu bạn nói với một người bạn, "Anh hai tôi giàu kếch xù." Câu đó không có tác dụng mạnh lắm, và người bạn chắc chỉ gật đầu cho qua chuyện. Nhưng nếu bạn nói, "Chị ba tôi làm nghề rửa bát ở nhà hàng với lương $10 USD một giờ trong khi anh tôi giàu kếch xù," thì người nghe chú ý nhiều hơn, và cái giàu kếch xù của ông anh hai trở nên quan trọng. Người nghe có được hai qui chiếu so sánh: mối liên hệ họ hàng giữa anh hai và chị ba, và lợi tức nghèo khó của chị ba, và do đó có ấn tượng mạnh với sự giàu có của ông anh hai.
Trong câu "Anh ơi ai nỡ chia đôi bờ để tình ta ngày tháng phải mong chờ," cô gái trách việc đất nước chia đôi đã khiến hai người phải mong chờ. Cái hậu quả đặc thù và trực tiếp của đất nước chia đôi là hai người bị xa cách. Như đã trình bày ở trên, câu này nghe có vẻ ích kỷ vì cô gái chỉ tha thiết đến mối tình của mình. Nhưng ngay sau đó, cô gái biểu lộ ước mơ cao quý hơn, bao quát hơn. Đó là đem thanh bình cho toàn dân. Ta thấy nếu ngay từ lúc đầu cô gái nói đến cái ước mơ cao quý này, khán giả sẽ không có một ấn tượng mạnh vì không có một qui chiếu so sánh. Ngoài ra, khán giả có cảm tưởng cô gái giả tạo. Bằng cách khởi đầu từ hình ảnh đặc thù cho hoàn cảnh riêng mình, cô gái thiết lập một qui chiếu so sánh và bày tỏ lòng thành thật. Tuy có chút ích kỷ, cô gái tạo được sự đáng tin. Do đó, khi cô nói đến ước vọng đem thanh bình cho toàn dân, khán giả có được sự so sánh và tin được đó quả thật là ước vọng chân thành của cô. Ngoài ra, cái ước vọng "Đem thanh bình sưởi ấm muôn lòng" là ước vọng cao quý cho toàn dân, tương phản với lời than vãn cá biệt "để tình ta ngày tháng phải mong chờ" trước đó. Chính cái tương phản đó tạo nên tác dụng mạnh mẽ trên khán giả.
Tương tự, trong câu "Vượt rừng vượt núi đến đầu làng/ Đò em trong đêm thâu sẽ đưa chàng sang vĩ tuyến," tác giả cho thấy hình ảnh đặc thù của cuộc hành trình đi qua vĩ tuyến, nhưng không giải thích lý do. Hình ảnh đó thật sôi nổi, sống động, khó nhọc, vất vả ("Vượt rừng vượt núi") khiến khán giả tự hỏi tại sao. Câu kế tiếp cũng chỉ nói cô gái sẽ đưa anh sang vĩ tuyến mà không cho biết lý do. Với những người không quen thuộc lịch sử Việt Nam và hiệp định Geneva năm 1954, họ sẽ không biết lý do. Nhưng ngay sau đó, câu kế tiếp cho biết lý do qua một hình ảnh bao quát, rộng lớn ở miền Nam. Đó là cuộc sống thanh bình, đầy tình cảm, và trù phú của miền Nam, tương phản với cảnh khó nhọc chàng phải trải qua trong cuộc hành trình đến gặp nàng ("Phương Nam ta sống trong thanh bình/ Tình ngát hương nồng thắm bên lúa vàng ngào ngạt dâng.")
Bằng cách khởi đầu với hình ảnh đặc thù, rõ rệt, và hạn hẹp rồi đưa đến một hình ảnh rộng lớn, bao quát, và có ý nghĩa cao xa, tương phản với hình ảnh đầu, tác giả tạo tác dụng mạnh trên khán giả một cách nhẹ nhàng, "lịch sự," và giúp khán giả quý, coi trọng cái hình ảnh bao quát cao xa đó.
3. Cách dùng chữ bình dị và mỹ từ hiệu quả tô điểm thêm nét sống động và tình cảm của câu chuyện:
Lam Phương là bậc thầy của cách dùng chữ có hiệu quả.
Ông dùng từ ngữ giản dị, đơn sơ, không cầu kỳ bóng bẩy, phù hợp với bản chất đơn giản, hiền hòa của dân Việt. Nhưng có cái gì chọn lọc trong việc xếp đặt ngôn từ đơn gỉản đó. Thí dụ, câu đầu tiên, "Đêm nay trăng sáng quá anh ơi," thật là bình dân. Chữ "quá" và "anh ơi" là những ngôn từ ta dùng hàng ngày. Nhưng tác giả dùng đó là câu mở đầu, và theo sau là lời than vãn, "Sao ta lìa cách bởi giòng sông bạc hai màu," khiến khán gỉả giật mình vì cái tương phản ("trăng sáng" hàm ý vui tươi, tương phản với "lìa cách"). "Anh ơi" không còn là một câu gọi thông thường nữa, mà trở thành một câu buồn than thống thiết. Ta thấy "anh ơi" lần nữa trong "Anh ơi ai nỡ chia đôi" có tác dụng tương tự.
Ông dùng động từ mạnh (mạnh đây là mạnh về tạo tác dụng, không phải mạnh về hoạt động vật chất): lìa cách, lênh đênh, vượt, dâng, xây, về, sưởi, rơi thấm, gieo, khơi,̉ thổn thức, đắm say; tính từ tượng hình, gây ấn tượng mạnh, linh động: (trăng) sáng, (sông) bạc, (nước) mông mênh, (đêm) thâu, (đêm/ tim) lạnh lẽo, (hương) nồng thắm, (lúa vàng) ngào ngạt, (sông) mơ màng, (đôi mi) ướt, (khúc hát) lâm ly, (lòng) não nùng, (anh) điêu linh, (quê nhà) chìm đắm, (trăng) ngà.
Ông dùng ẩn dụ một cách chọn lọc, và chính xác. Thí dụ "bạc hai màu" ám chỉ hai miền Nam Bắc, "nhịp cầu" hàm ý tình yêu thương tuy xa cách, "sưởi ấm" hàm ý hạnh phúc. Ngoài ra, ông dùng mỹ từ/ so sánh tinh tế, gợi hình, và có tác dụng mạnh. Thí dụ, trong câu "em chờ mong gặp bóng chàng," chữ "bóng" là một mỹ từ tuyệt vời, nói lên tâm trạng tha thiết, gần như tuyệt vọng của cô gái. Nàng chỉ cần thấy "bóng" chàng thôi là đủ sung sướng rồi. Trong câu "Sương khuya rơi thấm ướt đôi mi," ông vẽ ra đôi mi ướt, gợi ý cho nước mắt đọng long lanh.
Với chỉ 21 câu, bài hát là một đoạn phim sống động diễn tả cảnh cô gái đợi chờ người yêu trên con đò nhỏ giữa lòng sông bao la trong đêm khuya sáng trăng để cùng ̣vượt qua vĩ tuyến đến vùng thanh bình trù phú.
D. Kết Luận:
Ca khúc "Chuyến Đò Vĩ Tuyến" là một tuyệt tác phẩm, xuất sắc cả nhạc lẫn lời. Với giai điệu nhẹ nhàng, tiết tấu thay đổi theo ý, cộng với lời nhạc bình dị, đơn sơ và cách diễn tả điêu luyện, "Chuyến Đò Vĩ Tuyến" tha thiết nói lên tâm trạng người dân Việt trong thời đất nước chia đôi. Qua câu chuyện đơn giản của cô gái chờ đợi ngưởi yêu trên con đò để sang vĩ tuyến, nhạc sĩ Lam Phương biểu lộ tâm tình hiền hòa, bản chất nhân bản, yêu thương đồng bào và đất nước của người miền Nam.
Cậu trai 18 tuổi Lam Phương vẽ ra bức tranh sống động như một chứng nhân lịch sử với ý tưởng sâu sắc, tinh vi và lối diễn tả độc đáo của một thiên tài âm nhạc. Ca khúc "Chuyến Đò Vĩ Tuyến" đã làm rung động con tim hàng triệu người dân Việt trong gần 60 năm qua và sẽ mãi mãi trong các thế hệ sau.
CẢM TẠ
Tôi xin có lời chân thành cảm tạ nhạc sĩ Lam Phương đã đồng ý cho tôi có cuộc nói chuyện với ông về những tác phẩm của ông và trả lời cặn kẽ những câu hỏi chi tiết về các bài hát, kể cả bài "Chuyến Đò Vĩ Tuyến," mặc dù tuổi cao sức yếu. Nhạc sĩ Lam Phương biểu hiện một tâm hồn nghệ sĩ thiết tha với âm nhạc. Ông là một thiên tài xuất chúng với bản chất bình dị, đầy tình cảm, và nhiệt tình trong tình yêu thương đồng bào và đất nước. Đất nước Việt Nam hãnh diện có nhạc sĩ Lam Phương đã đóng góp một sự nghiệp vĩ đại trong nền âm nhạc Việt Nam trong việc phát huy văn hóa dân tộc sáng ngời mãi mãi.
Tôi cũng có lời cảm tạ các bạn trên trang mạng Dân Làm Báo, nhất là các bạn Nguyễn Văn Khôi, emSAIGON, Sài gòn, daubetangthuong, mythanh, và bức xúc, đã có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước và giúp tôi có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu của bạn Nguyễn Văn Khôi.
(PS: Bài viết này được nhạc sĩ Lam Phương đọc và chấp thuận cho đăng. Khi ông gọi điện thoại cho tôi sau khi đọc xong bài này, ông rất nhún nhường và nói, "Khi tôi viết bài hát, tôi viết bằng con tim." Tôi nói, "Vâng, cháu hiểu. Nhưng hầu hết những thiên tài không biết họ là thiên tài." Tôi hy vọng ông tin lời tôi.)
Tài Liệu Tham Khảo:
Asselin, Pierre. 2013. Hanoi’s Road to the Vietnam War, 1954-1965. University of California Press, California, U.S.A.
Duiker, William J. 2000. Ho Chi Minh – A Life, Hyperion, New York, U.S.A.
Huyen, N. Khac. 1971. Vision Accomplished? The Enigma of Ho Chi Minh. The Macmillan Company, New York, U.S.A.
Lind, Michael. 1999. Vietnam: The Necessary War. Simon & Schuster, New York. U.S.A.
Nhạc Việt trước 75. Không rõ ngày. Chuyến đò vỹ tuyến (Lam Phương).
http://amnhacmiennam.blogspot.com/2014/11/chuyen-o-vy-tuyen-lam-phuong.html#more (truy cập 9-12-14).
http://amnhacmiennam.blogspot.com/2014/11/chuyen-o-vy-tuyen-lam-phuong.html#more (truy cập 9-12-14).
Nixon, Richard. 1985. No More Vietnams. Avon Books, New York, U.S.A.
Nutt, Anita Lauve. 1970. On the Question of Communist Reprisals in Vietnam.
http://www.rand.org/content/dam/rand/pubs/papers/2008/P4416.pdf (truy cập 29-9-2014).
http://www.rand.org/content/dam/rand/pubs/papers/2008/P4416.pdf (truy cập 29-9-2014).
Zhai, Qiang. 2000. China and the Vietnam Wars, 1950 – 1975. The University of North Carolina Press, North Carolina, U.S.A.
Wikipedia. 2014a. Lam Phương. Thay đổi chót: 22-10-2014.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Lam_Ph%C6%B0%C6%A1ng (truy cập 6-12-2014).
http://vi.wikipedia.org/wiki/Lam_Ph%C6%B0%C6%A1ng (truy cập 6-12-2014).
Wikipedia. 2014b. Geneva Conference (1954). Thay đổi chót: 30-11-2014.
http://en.wikipedia.org/wiki/Geneva_Conference_(1954) (truy cập 8-12-2014).
http://en.wikipedia.org/wiki/Geneva_Conference_(1954) (truy cập 8-12-2014).
© 2014 Cao-Đắc Tuấn