I. Khái Quát
Mặc dù là một nước Xã Hội Chủ Nghĩa - tức là một đường lối chính trị được rao giảng là vì người nghèo- cho người nghèo nhưng Việt Nam lại đang là nước đứng đầu về tệ nạn xuất khẩu con người ra năm châu bốn bể. Thân phận con người Việt Nam trong Xã Hội Chủ Nghĩa chẳng lẽ nào cũng ngang hàng như hàng hóa hay sao?
Bốn chữ "xuất khẩu lao động" không hề nghe đến và tưởng tượng nổi vào thời Việt Nam Cộng Hòa nhưng lại trở thành phổ biến dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa kể từ năm 1980 trở đi. Đi theo Chủ Nghĩa Xã Hội mà lại bán con người như thế thì là một sự khôi không thể ngờ được trong lịch sử Việt Nam ta.
Bốn chữ "xuất khẩu cô dâu" cũng là bốn chữ mà người dân Việt Nam Cộng Hòa không nghĩ ra nổi, cũng chỉ xuất hiện dưới thời đại Xã Hội Chủ Nghĩa mà thôi. Tệ nạn buôn người qua ngã "xuất khẩu cô dâu" đang lan rộng, trở thành là phương thức buôn bán con người hợp pháp.
Người nghèo cùng cực phải bán thân, bán sức lao động trở thành nô lệ ở xứ người mà sống, đất nước ngày nay sao còn có người chẳng thấy điều này là sỉ nhục, là căm phẩn mà vẫn nhởn nhơ toan tính chuyện mua quan bán tước, chạy chức chạy quyền vào Đảng để ấm thân.
II. Thành tích "xuất khẩu lao động" của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
1. Thống kê về “xuất khẩu lao động”
Giới chức Cộng Sản Hà Nội thừa nhận trong số 500 ngàn lao động Việt Nam được xuất khẩu, thì ít nhất 246 ngàn người là lao động nữ.
Không ráng tạo ra các chương trình an sinh xã hội, tài trợ tài chánh dồi dào cho người nghèo về nhà cửa, thực phẩm, giáo dục, Cộng Sản Hà Nội thúc đẩy bán con người ra năm châu bốn bể để lấy ngoại tệ về cho Đảng, bất kể người dân phải làm những công việc nặng nhọc, thấp hèn mà dân bản xứ chê bai không muốn làm. Việt Nam được coi là một trong những nước xuất khẩu lực lượng ở đợ OSIN nhiều nhất Đông Nam Á.
Sau đây là bản thống kê thành quả buôn bán con người- xuất khẩu lao động của Cộng Sản Hà Nội ra năm châu bốn bể, tổng kết các tài liệu từ Cục Quản lý Lao động Ngoài nước, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và thống kê của cơ quan Liên Hiệp Quốc: United Nations Inter-Agency Project on Human Trafficking- UNIAP
Số lượng 747 ngàn người xuất khẩu lao động quá nhiều như vậy chỉ có thể đạt khi chế độ Cộng Sản độc quyền ở Hà Nội thúc đẩy khuyến khích xuất khẩu lao động. Các công ty dịch vụ tuyển người lao động ra ngoại quốc điều do Nhà Nước hoặc Đảng nắm hết.
Tất cả các nạn nhân của cái gọi là xuất khẩu lao động phải mượn tiền để lo các chi phí dịch vụ khi nộp đơn đăng ký xin được xuất khẩu lao động cho nên dù bị ngược đãi như nô lệ ở xứ người, các nạn nhân cũng phải ráng chịu đựng vì bị ngập chìm trong nợ nần do tổn phí lo lót nộp cho Đảng và Nhà Nước để được đi xuất khẩu lao động.
Trang web dưới đây (của Đảng) cho thấy rõ ý đồ thúc đẩy xuất khẩu lao động- mua bán con người công khai của Cộng Sản Hà Nội (2)
Các nạn nhân nghèo khổ cùng cực phải bán sức lao động mà sống làm gì mà có nổi phân nữa số tiền cước phí cũng như tiền đặt cọc (từ 200 Mỹ kim đến 600 Mỹ kim.)
Ở Việt Nam, nhiều khi dành dụm cả nửa đời bằng sức lao động xích-lô ba gác cũng chỉ gom góp được hai ngàn đô là cùng trong một quốc gia có 17.5% tỷ lệ nghèo khó- với mức thu nhập bình quân quốc dân thấp nhất Đông Nam Á, không quá hai ngàn Mỹ kim một năm.
Cho nên, hầu hết các nạn nhân phải mượn tiền cả hai đầu, một đầu cho vay nặng lãi của bọn cò mồi tay chân và một phần từ các ngân hàng do cán bộ Đảng nắm. Đó là chưa kể tiền "trà nước" hối lộ qua các cửa để hồ sơ được suôn sẻ xuôi lọt.
Dân nghèo tay trắng, không học thức không nghề nghiệp lấy đâu ra 1,200 đô-la mà nộp phí ngoại trừ mượn nợ bán thân. Chưa gì mà các nạn nhân đã chìm ngập nợ nần khoảng trên dưới gần cả ngàn Mỹ kim để có thể lên đường đi lao động-trở thành một thứ hàng hóa nô lệ trong hoạt động buôn người của chế độ.
Chính phủ đã có tiền cho mượn đi xuất khẩu lao động cả ngàn đô, sao không dùng tiền đó, cho các nạn nhân mượn để ăn học chi phi ở Đại Học, khi ra trường nếu có việc làm thì từ trả lại trong thời hạn 30 năm? Không, Cộng Sản Hà Nội không biết tính toán kiểu đó, họ chỉ bán dân để lấy ngoại tệ liền ngay tức khắc mà thôi.
Đây là căn nhà của bà Loan, mẹ của anh Trần Văn Tuyên. Anh Tuyên sanh năm 1991, đi lao động ở Mã Lai, bị ngược đãi và chết cháy tại Mã Lai. Ở trong một căn nhà như vầy thì gia đình anh Tuyên làm gì có 1,200 Mỹ kim để nộp hồ sơ xin đi lao động trừ phi lún sâu trong nợ nần để được đi lao động. (3)
Các nạn nhân chìm ngập trong nợ nần nên cắn răng chịu đựng tù đày, mong vừa trả nợ, vừa giúp gia đình thoát khỏi nghèo khó cùng cực. Thật không ngờ, dân tộc Việt Nam, văn hiến kiêu hùng đánh bại Mông Nguyên nay lại phải bán thân ở đợ nhục nhã khắp năm châu, bị đối xử như nô lệ.
Phải chăng đó là thành quả tốt đẹp của cái gọi là Chủ Nghĩa Xã Hội, chống đối chuyện người bóc lột người?
2. Thảm cảnh của nạn buôn bán con người do Đảng Cộng Sản Hà Nội tiến hành
Hàng loạt các vụ các nạn nhân của "xuất khẩu lao động" sống tồi tệ như nô lệ lần hồi được khám phá phanh phui. Ngoài vụ xưởng may ở Nga năm 2012 với 14 công nhân bị chết cháy vì bị nhốt trong xưởng không đường thoát; vào tháng chín năm 2005, hơn ba mươi công nhân- xuất khẩu lao động của Việt Nam đã phải kêu cứu trước chính quyền sở tại Malyasia. Mọi người bàng hoàng trước tình trạng các công nhân này khi phải sống trong các thùng "container," không có cầu tiêu hay nhà vệ sinh, tiêu tiện tại chỗ như heo hay như tù.
Chỉ trong ba năm 2006 đến 2008, chỉ dựa trên tin tức, bản thống kê số người Việt Nam xuất khẩu lao động bị sát hại hay thiệt mạng sẽ như sau:
Bản thống kê 2: Số người Việt Nam bị thiệt mạng khi đi "xuất khẩu lao động" 2006-2008
Đó là chưa kể những tai nạn lao động mà người Việt phải cắn răng chịu đựng vì không có luật pháp hay công đoàn bảo vệ khi đi xuất khẩu lao động. Các tai nạn lao động xảy ra với người Việt Nam đi xuất khẩu lao động điều bị giấu nhẹm nhưng các cơ quan từ thiện của Liên Hiệp Quốc, giới truyền thông cũng đếm được 600 tại nạn lao động dành cho nhân công Việt Nam tại Mã Lai chỉ trong ba năm 2006 đến 2008. Đài Loan cũng có khoảng 500 tai nạn lao động trong cùng thời gian.
Theo bản thống kê 1, Việt Nam có khoảng 748 ngàn lao động ở ngoại quốc thuộc diện "xuất khẩu lao động,” sống chết đói khổ không thể biết được. Giới hữu trách của Liên Hiệp Quốc cho rằng nếu 30 ngàn công nhân Việt Nam tại Nga thuộc diện "xuất khẩu lao động" sống tồi tệ như những nô lệ không có công đoàn, không có luật pháp che chở thì lao động Việt Nam ở những nơi khác cũng sẽ gặp những bất công tương tự.
Giới chức trách tại Nga đã khẳng định 14 công nhân Việt Nam bị chết cháy tại xưởng may ở thành phố Yegoreev vào ngày 11 tháng Tám năm 2012 là do các công nhân này bị khóa nhốt như nô lệ trong xưởng khiến không thể thoát ra khi xưởng bóc cháy do chạm điện. Những công nhân này sang Nga làm việc dưới dạng xuất khẩu lao động, và phải sống trong điều kiện tồi tệ, giam cầm.
Chị Bùi Thị Mịa, một nạn nhân của cái gọi là "xuất khẩu lao động", được giới chức trách Nga cứu thoát khi điều tra sau vụ cháy cho RFI biết như sau: "Từ lúc em sang ấy đến lúc về là 18 tháng lúc em xuống sân bay Việt Nam, em không có một đồng tiền trong tay… làm việc mỗi ngày 16, 17 tiếng đồng hồ... ăn uống thì mỗi tháng được một lần rau quả tươi..."
Giới hữu trách Liên Hiệp Quốc cùng với Cộng Sản Hà Nội buộc lòng phải thừa nhận 40% trăm lao động Việt Nam đi xuất khẩu lao động tại Mã Lai hoàn toàn sống trong điều kiện ngược đãi như nô lệ. Như vậy, theo bản thống kê 1, 40% của 193,531 lao động Việt tại Mã Lai là vào khoảng 77 ngàn người Việt Nam phải chịu cảnh ngược đãi, nô lệ cưỡng bức lao động mỗi ngày.
Điều này không có nghĩa là ở những quốc gia khác, các công nhân xuất khẩu lao động Việt Nam có một tỷ lệ lệ đối xử khá hơn ở Mã Lai. Vụ 14 công nhân xuất khẩu lao động Việt Nam bị nhốt rồi chết cháy trong xưởng may của Nga càng chứng tỏ ở mọi nơi, mọi quốc gia, thân phận người Việt Nam nghèo khó xuất khẩu lao động đang bị Đảng Cộng Sản Hà Nội bán đi một cách hợp pháp thông qua chương trình xuất khẩu lao động, điều chịu cùng một tỷ lệ, một nguy cơ ngược đãi nô dịch khổ sở kinh khủng giống như ở Mã Lai.
Nếu đúng là như vậy, nhân rộng 40% bị ngược đãi ở Mã Lai cho tổng số 747 ngàn lao động thì con số nạn nhân bị Đảng Cộng Sản bán đi thông qua chương trình xuất khẩu lao động tính từ 2001 đến 2011, bị nguy cơ ngược đãi nô dịch khổ sở kinh khủng sẽ là khoảng 298 ngàn người.
Hơn một phần tư triệu con người Việt Nam sống như nô lệ, bị lao dịch mỗi ngày khắp bốn bể năm châu trên thế giới. Đó là kết luận sáng chói cho thành tích buôn người của Đảng Cộng Sản Hà Nội thông qua chương trình "xuất khẩu lao động."
Và nếu LỆ PHÍ GIẤY TỜ NỘP CHO ĐẢNG- NHÀ NƯỚC là 1,200 Mỹ kim cho mổi thân phận Việt cùng đinh nghèo khó bán sức lao động thì thông qua thân phận của 747 ngàn con người bị XUẤT KHẨU, Đảng Cộng Sản Hà Nội thu trước về túi riêng bao nhiêu?
III. Thành tích "xuất khẩu cô dâu" của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Thế nhưng trong việc mua bán con người, Đảng Cộng Sản Hà Nội không dừng lại ở chương trình xuất khẩu lao động mà còn buôn người qua một chương trình khác- quy mô, tàn nhẫn hơn và đem về nhiều ngoại tệ không kém thông qua phí giấy tờ dịch vụ- Đó là chương trình xuất khẩu cô dâu.
"Xuất khẩu cô dâu" là một điều mà chẳng có một công dân Việt Nam Cộng Hòa nào mà có thể tưởng tượng hay nghĩ đến nổi. Chỉ có sự "sáng suốt" của Cộng sản Hà Nội mới có thể đẻ ra chiêu bài "xuất khẩu cô dâu" kinh rợn như thế.
Việt Nam trở thành một quốc gia xuất khẩu đàn bà đứng hàng đầu tại Đông Nam Á. Vấn đề hôn nhân là một vấn đề đòi hỏi thời gian, duyên phận và tình cảm nay đã bị Đảng Cộng Sản Hà Nội biến thành một giải pháp hợp pháp để tiếp tục xuất khẩu thân phận con người đổi lấy ngoại tệ.
Đảng Cộng Sản Hà Nội làm ngơ và lấy tiền cấp giấy phép cho các dịch vụ môi giới hôn nhân dành cho người ngoài quốc, nở rộ từ Nam chí Bắc. Nếu không có sự khuyến khích của Cộng Sản Hà Nội thì làm gì mà chuyện xuất khẩu cô dâu có thể lan rộng đại trà như vậy.
Nhờ đó, các hoạt động mua bán đàn bà cũng có cơ hội phát triển thông qua sự hôn nhân giả tạo sau khi đã đóng đầy đủ các cước phí giấy tờ.
Chỉ dựa trên tin tức từ các hãng thông tấn như BBC, VOA, các báo chí của Cộng Sản Hà Nội thì số lượng cô dâu Việt tại các quốc gia châu Á sẽ như sau:
Tuy nhiên, giới hoạt động chống mua bán phụ nữ trẻ em của Liên Hiệp Quốc cho rằng con số thống kê trên là cách biệt quá xa với con số thực tế trước tệ nạn mua bán phụ nữ Việt Nam đang diễn ra đại trà phổ biến do Đảng Cộng Sản Hà Nội âm thầm trợ giúp và làm ngơ để lấy ngoại tệ.
Tin tức minh họa sự tố cáo của thế giới đối với giới chức Cộng Sản Hà Nội
về những liên hệ mua bán phụ nữa trẻ em VN (4)
về những liên hệ mua bán phụ nữa trẻ em VN (4)
Cộng sản Hà Nội hời hợt khi đưa ra những con số thống kê về tệ buôn bán phụ nữ thông qua thủ tục hôn nhân và chỉ xuôi cò thừa nhận các dữ liệu thống kê khi đã được giới chức Liên Hiệp Quốc thông báo. Hiện tại, Việt Nam có khoảng 30 ngàn cô dâu bị mất tích không biết rõ số phận ra sao.
Vào ngày 15 tháng Giêng năm 2015, cảnh sát Mã lai đã giải cứu khoảng 136 phụ nữ Việt ra khỏi tình trạng bị cưỡng bức hành nghề mãi dâm. Trong số gái mãi dâm bị bắt tai Mã lai năm 2012, sở cảnh sát cho biết tổng số phụ nữ gái mãi dâm gốc Việt đã lên đến 3,456 người. Đương nhiên, con số mà nhà chức trách Mã Lai đưa ra không thấm vào đâu so với tổng số gái Việt hành nghề mãi dâm tại xứ này hiện chưa được pháp luật bắt bỏ tù.
Số phụ nữ Việt Nam bị cưỡng bức hành nghề mãi dâm tại Mã Lai hầu hết đều là nạn nhân của hôn nhân giả tạo với người Trung Quốc, Đài Loan bán sang Mã Lai. Chỉ có 35% là nạn nhân của các vụ xuất khẩu lao động.
Riêng tại Ghana, VOA đưa tin cảnh sát sở tại cùng với Interpol đã bắt và giải cứu 6 phụ nữ Việt Nam bị bắt làm nô lệ tình dục do các "má mì" Trung Quốc đưa sang. (5)
Tệ nạn xuất khẩu cô dâu qua ngã biên giới Trung-Việt đang gia tăng đến mức kinh khiếp và được mọi tổ chức của Liên Hiệp Quốc lên tiếng cảnh báo. Thành ngữ “Brides for sale” đang trở thành phổ biến trong giới truyền thông thế giới khi diễn tả những hoạt động buôn bán phụ nữ Việt Nam- xuất khẩu cô dâu (MARRIAGE TRAFFICKING) xuyên qua biên giới Việt-Trung.
Bản Đồ 1: Các trục lộ "Xuất Khẩu" buôn người từ Việt Nam sang Trung Quốc (source UNIAP*)
Chi tiết của bản đồ 2 phía dưới cho thấy các cô dâu Việt được "cung cấp" từ những nơi như Nghệ An, Yên Bái, Lào Cai, Tây Ninh và Sóc Trăng. Như vậy, "xuất khẩu cô dâu" đã trở thành đại nạn cho dân tộc Việt từ Nam chí Bắc sau 40 năm theo kinh tế Chủ Nghĩa Xã Hội độc tài Đảng trị. Đây cũng là dấu hiệu cho thấy nền an sinh xã hội Việt Nam đã hoàn toàn đổ vỡ.
Bản đồ 2: Những địa phương "cung cấp" cô dâu Việt XUẤT KHẨU qua Trung Quốc (source: UNIAP*)
Xin ghi chú là các hoạt động bán mua phụ nữ cho vấn đề tình dục (sex trafficking) vẫn thường xuyên đội lốt hôn nhân giả tạo. Các tỉnh miền Bắc cung cấp 100% tổng số phụ nữ XUẤT KHẨU thuộc diện "sex trafficking" sang biên giới Việt Nam- Trung Quốc. Số liệu thống kê về tệ nạn mua bán phụ nữ Việt qua ngã xuất khẩu cô dâu còn bị rời rạc vì những báo cáo điều dựa trên sự phát hiện của giới hữu trách hoặc của giới truyền thông trong khi con số thực tế các hoạt động mua bán phụ nữ Việt Nam thông qua ngã hôn nhân thoát lưới Pháp Luật, thoát ánh mắt theo giới của báo chí, interpol thì sẽ cao hơn rất nhiều, không cách gì có thể ngờ đến nổi.
Các đường dây mua bán phụ nữ thông qua hôn nhân thì tổ chức ngày một tinh vi, có sự trợ giúp của các viên chức tham nhũng khiến tệ nạn mua bán phụ nữ, xuất khẩu cô dâu tại Việt Nam cứ mỗi lúc mỗi gia tăng. Sự việc trầm trọng đến nỗi buộc cộng sản Hà Nội phải thừa nhận có 30 ngàn cô dâu bị mất tích.
Vào năm 2006, trước áp lực của các tổ chức liên Hiệp Quốc, VN-Express phải làm bộ kêu hoảng cho có kêu vì từ đó đến nay, tình hình mua bán phụ nữa Việt qua ngã xuất khẩu cô dâu hay XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG vãn không hề thay đổi, suy giảm mà còn nguyên hiện trạng nhọc nhằn khổ đau.(6)
Cũng từ năm 2006 đến nay, tỉ lệ phụ nữ Việt Nam bị bán qua biên giới, nhất là biên giới Việt Trung vẫn không hề suy giảm, cho nên bản tin trên của VN_EXpress chỉ là một sự minh họa một đại nạn của dân tộc, đang gậm nhấm từ từ vào tinh thần, quốc hồn quốc túy và quốc sĩ của dân tộc, đang bất lực trước nạn buôn người ngày một hoành hành dưới sự trợ giúp của một chế độ, một đội ngũ công an lên đến cả triệu người, "chỉ biết còn Đảng còn mình"
Thân phận của những cô dâu XUẤT KHẨU cũng không khá gì hơn những người bị XUẤT KHẨU dưới diện lao động. Các cô dâu Việt bị xuất khẩu tường trình với giới chức trách của Liên Hiệp Quốc là họ bị bán đi bán lại cho nhiều gia đình, họ bị nhốt trong nhà, bị đánh đập và nếu không hiểu bên gia đình chồng nói gì vì khác biệt ngôn ngữ, họ bị phạt bằng cách bỏ đói.
Thảm cảnh của các cô dâu Việt bị xuất khẩu, đương nhiên, không thể vài dòng mà có thể diễn tả hết được nổi đau, máu và nước mắt của họ. Đây chỉ là một sự tóm lược tối thiểu về những gì mà thân phận người phụ nữ Việt Nam phải trải qua do chính sách khuyến khích bán buôn thân xác con người của chế độ Cộng Sản Hà Nội để kiếm ngoại tệ.
Trung bình, ngoài chi phí vé máy bay, chi phí du lịch và ăn ở, người đi mua cô dâu Việt phải tốn lệ phí giấy tờ cho Đảng là 2,700 Mỹ kim cho đến 5,500 Mỹ kim. Nếu thực sự là như vậy thì với 242 ngàn cô dâu đã XUẤT KHẨU, Đảng lấy về bỏ túi trước mắt là bao nhiêu?
KẾT
Tệ nạn XUẤT KHẨU con người qua diện xuất khẩu lao động hay diện xuất khẩu cô dâu lẩn mua bán thân xác phụ nữ tại Việt Nam sẽ không có hy vọng thuyên giảm hay "cải thiện"" khi mà chế độ Cộng Sản Hà Nội chỉ biết buôn dân kiếm ngoại tệ hơn là ban bố chinh sách tài trợ tài chánh dồi dào cho giới lao động nghèo có cơ hội học nghề, mua bán sinh nhai, cải thiện đời sống và phát triển thành đạt NGAY trên quê hương Việt.
Chưa từng có trong lịch sử, mỗi ngày dân tộc Việt Nam sẽ có hơn một phần tư triệu người đang sống tệ cơ cực tệ hơn cả con heo hay tù, làm lụng cắn răng để trả nợ cho Đảng, và chấp nhận chết chóc trong bi thương nhọc nhằn không ai thương xót.
Cũng chưa từng có trong lịch sử, 30 ngàn cô dâu Việt Nam mất tích mãi mãi là một dấu hỏi cho lương tâm dân tộc Việt, bao giờ, chúng ta tìm thấy lại những đứa con bất hạnh của đất nước, đang trần truồng ghẻ lở đâu đó khóc gào kêu cứu, tiếng kêu cứu bi ai bị bít bùng trước những con người cờ đỏ Cộng Sản, trước những con người sợ cờ đỏ Cộng Sản, sống vô tri quên đi nổi đau của đồng loại.
Đâu rồi tiếng vọng ngàn thương tình tự dân tộc?
01/06/2015
_________________________________________
Chú thích:
(*) UNIAP: UNITED NATION INTER-AGENCY PROJECT ON HUMAN TRAFFICKING