Phạm Khắc Trung (Danlambao) - Làm sao chúng ta có thể hòa hợp với bọn bán nước buôn dân cho được? Vua Lê Thánh Tôn đã chỉ dụ rằng: “Nếu dám đem một thước một tấc của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di”! Mỵ Nương chỉ là nạn nhân của cuộc tình giả trá, kết cuộc cũng không khỏi bay đầu dưới làn kiếm của vua cha! Càng ngày mọi người đều thấy rõ nguy cơ mất nước về tay Trung Cộng: Khởi từ công hàm bán nước do Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ấn ký ngày 14-09-1958 gửi Thủ Tướng Chu Ân Lai với nội dung “Chính phủ nước VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước CHND Trung Hoa quyết định về hải phận Trung Quốc (bao gồm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa)", đến Hội Nghị nhục nhã ở Thành Đô 1990: CSVN cúi lạy xin làm tay sai cho Tàu khựa, mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 5.
Trong pho kiếm hiệp "Tiếu ngạo giang hồ", Kim Dung nêu lên một xã hội điên cuồng trong ảo tưởng quyền lực. Võ lâm phân chia thành hai bờ đối cực: Một bên là Minh giáo, biểu tượng cho chế độ độc tài chuyên chế, đại biểu cho ý thức hệ “duy địa” (duy vật).
Một bên là Ngũ nhạc kiếm phái (gồm Tung Sơn, Hoa Sơn, Hằng Sơn, Thái Sơn, Hành Sơn), Thiếu Lâm, Võ Đương, Thanh Thành và những phái nhỏ khác như Côn Lôn, Không Động…, là hình tượng cho những đảng phái chính trị và tôn giáo của xã hội đa đảng, đại biểu cho ý thức hệ “duy thiên” (duy tâm).
Cả hai phe đều muốn tiêu diệt nhau mà giành lấy độc quyền trong sự thống nhất võ lâm, đưa đến những trường máu tanh giết chóc không nguôi…
Thế gian điêu linh trong cơn mưa giết chóc, thanh trừng…
Lòng người ngao ngán trong cơn lốc khủng bố, ám hại…
Đâu là cái lẽ công chính của đạo lý và lẽ thích nghi của sự lý?
"Tiếu ngạo giang hồ" là tên khúc cầm tiêu hợp tấu, do Lưu Chính Phong, cao thủ phái Hành Sơn trong Ngũ nhạc kiếm phái, cùng Khúc Dương Trưởng Lão của Ma giáo hợp soạn.
“Thiên Nhạc Ký trong bộ Lễ Ký viết: “Nhạc giả âm chi sở do sinh giã: Nhạc do âm mà sinh ra”. Âm khởi phát do tự lòng người, lòng người cảm ngoại vật mà động, cho nên mới hình ra ở cái thanh. Những thanh tương ứng với nhau rồi biến ra thành phương, tức là thành cung bậc trong đục cao thấp, gọi là âm. Âm chia ra làm năm bậc là: cung, thương, giốc, chủy, vũ (năm âm này theo luật Hoàng Cung gọi là năm chính thanh và hai biến thanh là biến cung và biến chủy, có khi gọi là thanh văn và thanh vũ, gồm tất cả là bẩy thanh, nhưng khi nói âm nhạc thì thường chỉ năm âm chính chứ không nói bẩy thanh). Đem các âm so vào những nhạc khí để đánh ra tiếng; những tiếng: kim thạch ti trúc; những đồ múa: can (khiên), thích (búa), vũ (lông chim sả), mao (lông đuôi bò); và những thi phú ca vịnh, gồm tất cả gọi là nhạc. Cái tác dụng của nhạc cốt hòa thanh âm cho tao nhã, để di dưỡng tính tình, cho nên Khổng Tử nói: “Trí nhạc dĩ trị tâm, trắc dị trực từ lượng chi tâm du du nhiên sinh hỹ: Xét cho cùng các lẽ về nhạc để trị lòng người, thì cái lòng giản dị, chính trực, từ ái, thành tín, tự nhiên phơi phới mà sinh ra” (Lễ Ký: Tế Nghĩa, XXIV)” (Nho Giáo, Trần Trọng Kim, trang 156-158).
Như thế, Kim Dung muốn nêu lên một ước vọng thầm kín, muốn thấy được một sự “thoát xác” của phe hiếu chiến thích xâm lược, để đem lại “diễn tiến hòa bình” cho nhân loại, nghĩa là ông muốn thấy sự bừng tỉnh của lễ nhạc, sự thức tỉnh của đạo nhân.
Đọc đến đây, xin ai đó chớ vội mừng thầm, đừng lẫn lộn với những cụm từ "Hòa hợp hòa giải" đã bị Việt cộng cùng đám Việt gian lợi dụng và gây nhiều tranh chấp. Hãy nhìn vào cung cách nhà cầm quyền CSVN đối xử với dân oan, người bất đồng chính kiến, những nhà đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền và môi trường trong nước ra sao sẽ rõ!
Làm sao chúng ta có thể hòa hợp với bọn bán nước buôn dân cho được? Vua Lê Thánh Tôn đã chỉ dụ rằng: “Nếu dám đem một thước một tấc của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di”! Mỵ Nương chỉ là nạn nhân của cuộc tình giả trá, kết cuộc cũng không khỏi bay đầu dưới làn kiếm của vua cha!
Càng ngày mọi người đều thấy rõ nguy cơ mất nước về tay Trung Cộng: Khởi từ công hàm bán nước do Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ấn ký ngày 14-09-1958 gửi Thủ Tướng Chu Ân Lai với nội dung “Chính phủ nước VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước CHND Trung Hoa quyết định về hải phận Trung Quốc (bao gồm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa)", đến Hội Nghị nhục nhã ở Thành Đô 1990: CSVN cúi lạy xin làm tay sai cho Tàu khựa, mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 5.
Từ đấy đến nay, bao thảm cảnh dở khóc dở cười xảy ra không ngớt: Một bloger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải bị bắt vì tội trốn thuế, một Phạm Thanh Nghiên bị tù vì tội tọa kháng trước nhà, cùng rất nhiều người khác bị kết án nặng nề như LS Lê Chí Quang, blogger Tạ Phong Tần, nhạc sĩ Việt Khang, Bùi Thị Minh Hằng v.v…, cũng chỉ vì dám hiên ngang lên tiếng phản đối Trung Cộng chiếm đóng 2 đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam ta.
Rồi những cuộc biểu tình được gọi là tự phát để phản đối Trung cộng lấn áp Việt Nam ngoài Biển Đông cũng bị đàn áp hết sức dã man: Nào là người biểu tình yêu nước bị bốn công an khiêng như khiêng heo cho một sĩ quan công an khác liên tiếp đạp lên mặt, nào là công an đánh đập rồi lùa bắt người biểu tình yêu nước lên xe buýt chở nhốt vào trại phục hồi nhân phẩm Lộc Hà… Thử hỏi, có một đất nước nào mà nhà cầm quyền lại bắt bớ, đàn áp người dân của mình biểu tình vì lòng yêu nước như đảng và nhà nước CSVN?!
Ngày 16 tháng 05 năm 2013, Tòa án tỉnh Long An kết án hai sinh viên yêu nước Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên với hai bản án hết sức nặng nề về tội “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN”, trong đó có hành vi dùng máu pha loãng với nước rồi viết vào một mảnh vải “có nội dung không hay về Trung Quốc”. Thế nào là nội dung không hay về Trung Quốc? Chỉ vì câu viết "có nội dung không hay về Trung Quốc" mà tòa án tuyên xử Nguyễn Phương Uyên 6 năm tù giam và 3 năm quản chế về tội “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN" chăng? Hóa ra cái nhà nước CHXHCNVN là tổ chức tôi đòi cho Trung cộng ư? Sao không đổi khẩu hiệu "Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội" thành "Yêu nước là yêu Tàu khựa" luôn cho gọn?
Nhà văn Dương Thu Hương, người đảng viên có mặt trong đội quân "tiến về Sài Gòn giải phóng thành đô” ngày 30/04/75, đã bừng tỉnh cơn mơ kêu gọi: “Quân đội nhân dân hãy đứng lên để cùng toàn dân chém chết “14 con đĩ Mỵ Châu Việt cộng” đang nằm dạng háng chờ “bọn Trọng Thủy Tàu cộng” đến để dâng nỏ thần và đất nước VN!”
Thật ra thì phải đợi đến ba năm sau khi Nhậm Ngã Hành chết rồi thì khúc "Tiếu ngạo giang hồ" mới được Nhậm Doanh Doanh cùng Lệnh Hồ Xung hợp tấu.
Tổng Thống Nga, Boris Yeltsin đã quả quyết: “Cộng sản không thể nào sửa chữa mà cần phải đào thải nó”. Điều đó có nghĩa là tiến trình hòa giải hòa hợp khả thi, hợp lý và được chấp nhận bởi đại khối dân tộc, chỉ có thể thực hiện được sau khi đảng cộng sản Việt Nam cáo chung. Lúc đó, cũng giống như Liên Bang Nga hậu cộng sản, họ đã bỏ cờ đảng và lấy lại Quốc kỳ thời Nga Hoàng làm biểu tượng cho quốc gia. Việt Nam ta hậu cộng sản cũng vậy, phải bỏ cờ đảng và thay thế bằng lá cờ dân tộc là Đại Nam Quốc kỳ từ thời Vua Thành Thái là việc hết sức khả thi.
Nhìn lá cờ vàng ngạo nghễ tung bay trên bầu trời các nước Tự Do khắp thế giới, nay đã len lỏi góp mặt trong hàng ngũ sinh viên yêu nước Sài Gòn, Hà Nội..., nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, kẻ chiến thắng hụt hơi (lẫn dở hơi), thấu hiểu hơn ai hết, cái tiềm lực của chính nghĩa quốc gia vẫn vững bền, và khả năng khôi phục là điều tất yếu, nên bọn chúng mới hoảng sợ mà tung ra nghị quyết 36, mong triệt hạ lá cờ vàng bằng mọi thủ đoạn. Đó là bối cảnh của công cuộc Bảo Vệ Cờ Vàng giữa người Việt Quốc Gia khắp thế giới, với tập đoàn CSVN và bè lũ tay sai Việt gian trở cờ được công bố chính thức là 80.000 tuyên truyền viên mạng, được chính quyền CSVN huấn luyện và trả lương để làm việc theo đơn đặt hàng.
Thử liên tưởng đến bối cảnh của Hồi 219, mang tên "Lệnh Hồ Xung từ biệt người yêu" trong truyện "Tiếu ngạo giang hồ". Hồi 219 bắt đầu bằng cái chiến thắng không đối thủ trên ngọn núi Hoa Sơn, khiến Nhậm Ngã Hành giận uất người vì công cuộc bố trí nhân lực để diệu võ dương oai tốn kém không biết bao nhiêu tâm sức của lão đã trôi theo mây khói, khi đối thủ của lão đã tự tận diệt lẫn nhau (trích):
"Hướng Vấn Thiên cùng bọn trưởng lão ngơ ngác nhìn nhau. Ai cũng ra chiều cụt hứng.
Chuyến này Triêu Dương thần giáo cử bọn nhân mã đến núi Hoa Sơn họ đã bố trí cực kỳ chu đáo.
Chẳng những họ điều động hết những tay cao thủ bản giáo mà còn mời anh hùng hào kiệt ở khắp các bang, các trại, các động, các đảo cùng đến phó hội.
Mục đích của họ đi chuyến này là để thu phục Ngũ nhạc kiếm phái. Nếu Ngũ nhạc kiếm phái không chịu hàng phục thì Triêu Dương thần giáo quy tụ họ vào một chỗ để tàn sát. Như vậy oai danh Nhậm Ngã Hành và Triêu Dương thần giáo từ nay sẽ chấn động khắp thiên hạ. Cả hai phái lớn là Thiếu Lâm và Võ Đương cũng không dám kháng cự nữa.
Cái mộng muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ trông vào cuộc oanh liệt trên ngọn Triêu Dương để làm khởi điểm.
Không ngờ lúc đến nơi thì Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần, Mạc Đại tiên sinh và mấy nhân vật tiền bối nổi danh phái Thái Sơn đều bị chết hết. Cả bọn đệ tử hậu bối bổn phái cũng chỉ còn lại một số rất ít.
Thế là bao nhiêu công trình bày đặt kế hoạch cùng tập dượt để ra mắt biến thành vô dụng. Trách nào lão chẳng buồn thiu". (ngưng trích)
Và bối cảnh cuộc đấu tranh bắt đầu kể từ sau lúc Lệnh Hồ Xung quyết liệt từ chối gia nhập Triêu Dương Thần Giáo, đành hy sinh tình yêu để cùng giáo chúng Hằng Sơn chiến đấu mà chu toàn danh dự và trách nhiệm của mình (trích):
"Lệnh Hồ Xung chờ cho tiếng cười dừng lại rồi dõng dạc nói:
− Vãn bối được giáo chủ có thịnh tình kêu gia nhập quý giáo và truyền cho ngôi cao chức trọng nhưng vãn bối là người không biết tuân giữ mực thước. Nếu vãn bối gia nhập quý giáo thì nhất định sẽ làm hư việc lớn của giáo chủ. Vãn bối đã nghĩ kỹ rồi, mong rằng giáo chủ thu hồi đề nghị đó.
Nhậm Ngã Hành trong lòng tức giận vô cùng, lão cất giọng lạnh như băng hỏi lại:
− Công tử nói vậy là nhất quyết không gia nhập Thần giáo ư?
Lệnh Hồ Xung đáp:
− Đúng thế!
Chàng đáp hai tiếng như đanh đóng cột tuyệt không ngần ngại chi hết.
Quần hào nghe chàng nói vậy không khỏi thất sắc.
Nhậm Ngã Hành lại nói:
− Trong mình công tử chứa nhiều luồng chân khí dị chủng và hiện nay đã phát tác. Từ đây mỗi lần phát bệnh là một lần trầm trọng hơn. Cách phá giải chứng này khắp thiên hạ chỉ có một mình bản tòa biết mà thôi.
Lệnh Hồ Xung đáp:
− Ngày trước ở Cô Sơn mai trang thành Hàng Châu, giáo chủ đã nói tới vụ này. Vừa rồi vãn bối lại được nếm mùi những luồng chân khí dị chủng phát tác thì quả nhiên thấy khổ sở vô cùng tưởng chết đi còn hơn. Nhưng bậc đại trượng phu đã chen chân vào chốn giang hồ thì chuyện sinh tử, vui buồn cũng chẳng để tâm đến làm chi.
Nhậm Ngã Hành hắng dặng một tiếng rồi nói:
− Công tử vẫn giở giọng quật cường, cứng cỏi. Bữa nay phái Hằng Sơn của công tử là ở trong tay bản tòa. Bản tòa không để cho họ sống sót một người xuống núi là việc dễ như trở bàn tay.
Lệnh Hồ Xung nói:
− Đệ tử phái Hằng Sơn tuy đều là hạng nữ lưu nhưng không biết sợ hãi. Giáo chủ muốn giết thì giết! Bọn vãn bối chỉ biết liều chết để chu toàn là yên chuyện.
Nghi Thanh vẫy tay một cái, quần đệ tử phái Hằng Sơn đều đến đứng sau lưng Lệnh Hồ Xung.
Nghi Thanh lại lớn tiếng tuyên bố:
− Toàn thể chúng ta chỉ biết theo mệnh lệnh của chưởng môn, dù chết cũng không sợ.
Quần đệ tử đồng thanh hô theo:
− Chết cũng không sợ.
Trịnh Ngạc nói:
− Anh hùng hảo hán trên chốn giang hồ đều biết đến phái Hằng Sơn ta bữa nay thà chết chứ không chịu nhục, hết sức chiến đấu để tiếng thơm cho đời sau.
Nhậm Ngã Hành tức giận đến cùng cực lại ngửa mặt lên trời cười rộ nói:
− Bữa nay bản tòa giết các người tất mang tiếng là ngấm ngầm bố trí mai phục để ám toán. Lệnh Hồ Xung! Ngươi dẫn bọn đệ tử của ngươi về núi Hằng Sơn. Trong vòng một tháng bản tòa sẽ thân hành lên núi Kiến Tĩnh. Khi ấy mà trên núi Hằng Sơn còn sống sót một con gà hay một con chó thi Nhậm mỗ này không đáng kể nữa.
Giáo chúng Triêu Dương thần giáo lại reo ầm ĩ:
− Thánh giáo chủ muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ! Phen này lên núi Hằng Sơn giết sạch sành sanh, gà chó cũng không bỏ sót". (ngưng trích)
Trong thực tế, "khi đồng minh tháo chạy", Dương Văn Minh hành xử y hệt Lao Đức Nặc, nghĩa là lễ mễ dâng miền Nam cho Việt cộng làm quà, hầu mong đổi lấy một chức Trưởng Lão nào đấy. Nhưng Nhậm Ngã Hành đã chẳng đoái hoài, còn sai bắt nhốt Lao Đức Nặc vào hậu động để xử trị sau.
Hơn nữa, Việt cộng đã không có cái hùng tâm và dũng khí của Nhậm Ngã Hành, nên thay vì thả giáo chúng Hằng Sơn về núi Kiến Tĩnh và hẹn một tháng sau sẽ đến tiêu diệt không bỏ sót một con chó một con gà, thì Việt cộng lại thẳng tay trả thù miền Nam một cách man rợ bằng hàng loạt các chiến dịch như: cải tạo quân nhân cán chính miền Nam, đổi tiền để cướp đoạt tài sản, cải tạo công thương nghiệp, lùa dân thành thị đi kinh tế mới để chiếm nhà, đánh tư sản..., đã khiến cho "cái cột đèn đi được cũng bỏ đi"...
Những người may mắn đến được bến bờ Tự Do dưới nhiều hình thức, hoặc là “người di tản buồn”, hoặc “thuyền nhân”, hoặc theo diện HO hay đoàn tụ gia đình…, nói chung cũng vì không thể sống chung với loài cộng phỉ. Khi vội vã ra đi, họ chỉ đem theo được cái di sản văn hóa dân tộc héo mòn, cùng với hình ảnh lá cờ vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc trong tim. Không ai ra đi mà không nguyện với lòng, rằng cố gắng giữ gìn để mong ngày phục hoạt, bởi hơn ai hết, họ ý thức được rằng, mất đất còn tậu lại được, chứ mất cái giá trị tinh thần là văn hóa dân tộc và cái hồn thiêng Tổ Quốc rồi là kể như tiêu! Bởi vậy mà trong những năm đầu nơi hải ngoại, không ai nêu vấn đề treo hay không treo cờ vàng trong những ngày hội hè, sinh hoạt, vì cờ vàng là lòng tự hào dân tộc, là niềm tin vững chắc vào tương lai, là biểu tượng của Tự Do − Dân Chủ, là giá trị thiêng liêng mà người Việt tỵ nạn cộng sản đã liều thân đánh đổi.
Nhưng rồi Nghị Quyết 36 xuất hiện làm xáo trộn cuộc sống của người Việt hải ngoại: Bàn tay dơ bẩn của Việt gian cộng sản đã vươn dài ra khỏi nước, cố triệt hạ nốt phần văn hóa dân tộc còn rơi rớt bên ngoài, trong âm mưu triệt hạ cờ vàng, mong biến chúng ta thành "những kẻ vô tổ quốc, sống thất tha thất thểu như những bóng ma chập chờn, để chỉ còn trơ lại cái xác không hồn, với những đoàn lũ trơ trọi từ trong tâm trí, sống bơ vơ như những con thú lạc bầy, để rồi sẽ chết dần chết mòn mà tuyệt chủng, bởi đã bị tước đoạt mất những giá trị dân tộc, những cái làm nên sinh thú cho cuộc sống đáng sống của con người", trong mục tiêu bán rẻ dân tộc cho Tàu, để từng bước Hán hóa nốt mảnh đất cuối cùng của Việt tộc!!!
Tổng Bí Thư đảng cộng sản Liên Xô, ông Mikhail Gorbachev, nói: "Tôi đã bỏ nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền dối trá". Thủ đoạn tuyên truyền dối trá của đảng cộng sản Việt Nam rất tinh vi, nhưng ngày nay nhờ sự bành trướng của hệ thống Internet toàn cầu, nguồn thông tin được kiểm chứng một cách chính xác và nhanh chóng, nên chúng không còn cơ hội dối trá được như xưa. Cái “ngọn cờ Độc Lập Dân Tộc từng khởi nghiệp cho đảng” lộ nguyên hình là chiêu bài mị dân của bè lũ bán nước "hèn với giặc ác với dân", nên quay lại trói chân tay đảng, khiến đội ngũ tuyên truyền mà đảng vẫn tự hào trở nên vụng dại, thể hiện qua: (1) Thái độ hận thù: hung hăng, thách đố, gây hấn, tấn công... (2) Ngôn từ bạo lực: hỗn hào, khinh miệt, khiếm nhã... (3) Hành vi bất lương: điêu ngoa, bới móc đời tư, bôi nhọ cá nhân... (4) Lý luận ấu trĩ, mù quáng... (5) Thủ đoạn hèn hạ: Đánh rồi chạy (Hit-and-run tactics); hăm dọa, chụp mũ đối tượng; lén lút ném đá dấu tay, thay đổi nick name như vị "cha già" của chúng...
Ông Vladimir Putin, Tổng Thống Nga tuyên bố: "Kẻ nào tin những gì cộng sản nói, là không có cái đầu. Kẻ nào làm theo lời cộng sản nói, là không có trái tim". CSVN biết mình không có chính nghĩa nên ra sức xuyên tạc lịch sử, nhưng rồi niềm tin của những đảng viên trung thực cũng xẹp dúm như trái bóng xì hơi, điển hình như lời nhận tội của ông Nguyễn Hộ: "Phải thú nhận rằng, chúng tôi đã chọn sai lý tưởng: cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì suốt hơn 60 năm trên con đường cách mạng cộng sản ấy, nhân dân Việt Nam đã chịu sự hy sinh quá lớn lao, nhưng cuối cùng chẳng được gì, đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân không có ấm no hạnh phúc, không có dân chủ tự do. Đó là điều sỉ nhục”. Bởi vậy mà những tên trí thức chàng hảng vẫn còn cái đầu nên đâu có tin những gì cộng sản nói, có điều họ mất con tim nên mới thậm thụt làm tay sai cho cộng sản vì quyền lợi cá nhân, nhưng đâu dám công khai ra mặt, chỉ lấm lét lén lút trở cờ, và khi người Quốc Gia lên tiếng, tức khắc họ im tiếng, âm thầm lủi vào bóng đêm, trả lại chỗ đứng vinh quang cho lá cờ vàng.
Người Việt Quốc Gia hải ngoại, giống như những ni cô và tục gia đệ tử của phái Hằng Sơn hiền lành chân thật, không dám sát phạt nhưng biết quên mình, biết ghi khắc ơn sâu và với lòng can đảm tột cùng, họ sẵn sàng đón nhận cái chết một cách thản nhiên. Hằng Sơn là phái duy nhất trong Ngũ nhạc kiếm phái còn tồn tại, tuy võ công không cao nhưng họ biểu dương được tư tưởng đoàn kết nội bộ thật sự, trong bất cứ hành động nào, họ không có chút hiềm nghi chia rẽ, bằng thế kiếm liên hoàn, họ luôn luôn kềm chế được những đối thủ mạnh hơn, họ không thua bao giờ, chỉ trừ ra khi phải mắc lừa những mưu mẹo hiểm độc của kẻ khác.
27/12/2016