Nguyễn Quang Dy (viet-studies) - ...Tuy lúc này Việt Nam đang cô đơn về chiến lược, phải một mình đối phó với Trung Quốc, nhưng không thể đầu hàng, vì để mất bãi Tư Chính thì Việt Nam có thể mất cả Trường Sa. Đối với Mỹ, Nhật, Ấn Độ, và Úc, cũng như các nước khác có lợi ích lâu dài tại Biển Đông, thì để mất bãi Tư Chính là một sai lầm chiến lược (như mất Scarborough Shoal), đồng nghĩa với chấp nhận để Trung Quốc kiểm soát Biển Đông như cái ao riêng của họ...
*
“Muốn hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh” (Si vis pacem, para bellum).
Nếu sự kiện dàn khoan HD 981 (5/2014) tạo ra cú sốc và một bước ngoặt lớn trong quan hệ Trung-Việt, đánh dấu “khủng hoảng Biển Đông lần thứ nhất”, thì đối đầu Trung-Việt đang diễn ra tại bãi Tư Chính (Vanguard Bank) từ giữa tháng 6/2017, có thể là “khủng hoảng Biển Đông lần thứ hai”. Lần thứ nhất, Trung Quốc đã xô đẩy Việt Nam xích lại gần Mỹ, và thúc đẩy Mỹ phải xoay trục sang Châu Á. Lần thứ hai, Trung Quốc đang thúc đẩy Mỹ-Nhật-Ấn-Úc liên minh tại Biển Đông và xô đẩy Việt Nam trở thành đồng minh. Đó là “hệ quả không định trước”, và là cái giá cho tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Dấu hiệu bất thường
Trong cuộc khủng hoảng dàn khoan HD 981, không khí sôi sục, thậm chí bạo động chống Tàu nổ ra tại các khu công nghiệp Bình Dương và Vũng Áng. Nhưng những gì đang diễn ra liên quan đến khủng hoảng tại bãi Tư Chính lần này có vẻ bí ẩn và ngấm ngầm. Trong khi báo chí chính thống không đưa tin, chính phủ các nước liên quan cũng hầu như nín lặng (kể cả Việt Nam, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Mỹ, Ấn, Nhật). Trong khi dư luận trên các trang mạng xã hội bức xúc đoán mò, báo chí quốc tế cũng đưa tin lấp lửng, thậm chí trái ngược nhau (như BBC và Reuters). Các chuyên gia về Biển Đông cũng đánh giá khác nhau. Trong khi Alexander Vuving và những người khác còn dè dặt, thì Bill Hayton khẳng định Hà Nội đã đầu hàng vì Washington bỏ rơi Việt Nam, để mất Biển Đông vào tay Trung Quốc (Bill Hayton, “The Week Donald Trump Lost the South China Sea”, Foreign Policy, July 31, 2017)
Có thể nói hiện tượng thiếu hụt thông tin (information deficit) là một dấu hiệu bất thường và bất ổn, do chính quyền và các bên liên quan không minh bạch thông tin. Nếu đúng là Việt Nam cam kết với Trung Quốc sẽ không bao giờ khoan nữa, thì việc yêu cầu Repsol dừng lại là một “chứng cứ thực tế” (de facto evidence) bất lợi cho Việt Nam trong tương lai khi phải đấu tranh pháp lý với Trung Quốc sau này. (Theo luật sư Hoàng ngọc Giao, viện PLD)
Một năm sau phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA rulings, July 12, 2016), Trung Quốc tuy bên ngoài tỏ ra hòa dịu hơn ở Biển Đông để phân hóa ASEAN và Mỹ, nhưng bên trong lại tỏ ra ngang ngược hơn, bắt nạt Việt Nam tại bãi Tư Chính. Trung Quốc cấm Việt Nam đánh cá và thăm dò dầu khí ngay trong vùng biển và thềm lục địa của mình ở Biển Đông, bất chấp phán quyết của PCA về “đường lưỡi bò” bất hợp pháp. Khi Việt Nam không chịu nghe theo lệnh cấm ngang ngược của họ, Trung Quốc dọa sử dụng vũ lực.
Từ đầu năm nay, Hà Nội đã tự tin hơn, ký 2 hợp đồng lớn với ExxonMobil (Mỹ) để thăm dò và khai thác khí tại mỏ Cá Voi Xanh (lô 118, cách Đà Nẵng 88km), và cho Talisman Vietnam (Repsol, Tây Ban Nha) tiếp tục khoan thăm dò tại mỏ Cá Kiếm Nâu & Cá Rồng Đỏ (lô 136/03 & 07/03, cách Vũng Tàu gần 400 km). Sau đó, Việt Nam còn gia hạn thêm 2 năm cho ONGC Videsh Ltd (OVL, Ấn Độ) thăm dò tại lô 128 (ngoài khơi Phan Thiết). Trong khi hợp tác với ExxonMobil gây ồn ào, thì thỏa thuận với Repsol lại im hơi lặng tiếng (có thể do “nhạy cảm”?). Trên bản đồ, lô 136/03 nằm trong Bãi Tư Chính, bên lề vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hà Nội cho Repsol khoan thăm dò không chỉ để khai thác dầu khí, mà còn nhằm khẳng định chủ quyền, trong khi hợp tác với Mỹ và Ấn Độ có ý nghĩa chiến lược.
Vị trí lô 136 và 07/03 (Cá Rồng Đỏ và Cá Kiếm Nâu)
Khác với BBC, Reuters đưa tin (24/7/2017), tầu khoan Deepsea Metro I vẫn đang ở nguyên vị trí mà nó đã khoan (tại lô 136/3) từ giữa tháng 6/2017. Một tàu chiến Indonesia đi ngang qua đó (22/7/2017) cho biết họ không thấy dấu hiệu gì đặc biệt, ngoài 3 tàu cảnh sát biển và 2 tàu cá Việt Nam đang hoạt động tại khu vực đó. Cũng theo nguồn tin trên, Deepsea Metro I đã khoan thử vỉa (DST) và đo đạc (logging), về cơ bản đã hoàn thành công tác DST và logging, thu thập đủ số liệu cần thiết, nên rút tàu Deepsea Metro I về lúc này không ảnh hưởng gì đến kế hoạch. Trước tin đồn về việc Repsol phải ngừng thăm dò, CEO của Repsol giải thích rằng liên doanh PVN-Repsol tạm ngừng khoan thăm dò tại lô 136/03 vì bắt đầu mùa mưa bão ảnh hưởng lớn đến tiến độ và an toàn dự án, nên công việc sẽ tiếp tục vào 11/1017.
Dù đây là quyết định của ai, Repsol hay Hà Nội, thì việc giải thích thế nào cũng không quan trọng lắm. Nhưng về lâu dài, trước sức ép của Trung Quốc, chiến lược tổng thể để khai thác các lô dầu khí của Repsol chắc phải tính toán lại, và điều chỉnh cho phù hợp với tình huống mới. Theo BBC, Deepsea Metro I đã ngừng khoan, nhưng chưa rời hiện trường, vì còn phải bơm xi măng lấp miệng giếng dầu để bảo đảm an toàn, ngừa dầu khí phun trào.
Deepsea Metro I: ngừng khoan lô 136-03
Trò chơi vương quyền
Cách đây hơn một tháng, quan hệ Trung-Việt bắt đầu căng thẳng sau khi tướng Phạm Trường Long đang thăm Hà Nội đã tức giận bỏ về (18/6/2017), trước thái độ cứng rắn của Hà Nội, không chịu nhân nhượng, tiếp tục cho khoan thăm dò dầu khí tại Biển Đông. Bắc Kinh đã triệu hồi đại sứ, đòi đàm phán cấp cao, và đưa hàng trăm tàu đến khu vực bãi Tư Chính. Trước sức ép của Bắc Kinh, Hà Nội vẫn cho Repsol tiếp tục khoan thăm dò tại lô 136/03 do nhà thầu Odfjell Drilling Ltd (Na Uy) thực hiện. Theo BBC (24/7/2017) Repsol xác nhận là họ đã tìm được một mỏ khí lớn tại đây, tuy khoan chưa đủ độ sâu cần thiết thì phải dừng.
Trong thời gian đó, Bắc Kinh đã cho tàu khoan HYSY-760 và hơn 40 tàu hộ tống tiến vào bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, là nơi PVN và Repsol đang khoan thăm dò tại lô 136/03. Hành động đe dọa này của Bắc Kinh nhằm ép Repsol phải rút khỏi dự án. Repsol bắt đầu khoan 2 mũi đầu tiên vào ngày 18/6/2017, trùng hợp với ngày tướng Phạm Trường Long “đột ngột” bỏ về nước (có thể là do sự kiện này chăng?).
Ngày 22/7/2017, 15 tàu Cảnh sát biển thuộc Vùng III được lệnh rời Vũng Tàu tiến ra bãi Tư chính để tăng cường cho lực lượng Kiểm ngư và Chấp pháp (30 tàu) đang tuần tra tại khu vực đó, nhằm ngăn chặn không cho HYSY-760 và nhiều tàu hộ tống Trung Quốc đang lăm le vượt qua “làn ranh đỏ” để tiến sâu vào vùng thềm lục địa phía Nam. Theo Bill Hayton, (BBC, 24/7/2017) Hà Nội đã yêu cầu Talisman Vietnam (Rapsol) ngừng khoan thăm dò tại bãi Tư Chính (lô 136/03), với lý do Trung Quốc đe dọa tấn công các căn cứ của Việt Nam tại Trường Sa. Tại sao Hà Nội trước đó tỏ ra cứng rắn trước sức ép của Bắc Kinh, nay lại vội vã lùi bước và nhân nhượng họ? Sự thay đổi thái độ của Hà Nội có ý nghĩa gì?
Gần đây, khi Hà Nội tỏ thái độ cứng rắn đối với Bắc Kinh, nhiều người suy đoán rằng Hà Nội chắc đã thỏa thuận ngầm với Washington về hợp tác chiến lược (trong chuyến đi Mỹ của ông Nguyễn Xuân Phúc), bao gồm cả việc sử dụng quân cảng Cam Ranh. Nhiều người hy vọng Mỹ sẽ bênh vực Việt Nam nếu bị Trung Quốc bắt nạt. Nhưng đến nay Mỹ vẫn im lặng. Liệu Mỹ có ra tay bảo vệ Việt Nam không, khi hai bên chưa phải là đồng minh và đối tác chiến lược? Trong khi đó nội bộ Mỹ vẫn bất ổn, chiến lược bất nhất như “trống đánh xuôi kèn thổi ngược”, còn bất ổn hơn cả “tiếng kèn ngập ngừng” (thời Tổng thống Obama). Theo Bonnie Glaser (CSIS) Mỹ sẽ không can thiệp quân sự để bảo vệ Việt Nam chống lại Trung Quốc, vì Việt Nam không phải là đồng minh. (“What would the U.S. have done differently? I find it unlikely that the U.S. would militarily defend Vietnam against China. Vietnam isn’t an ally”).
Ngoài hợp tác với Repsol là tập đoàn dầu khí quốc gia Tây Ban Nha (có vốn hóa trên thị trường niêm yết là $ 21,5 tỷ), Việt Nam còn hợp tác với ExxonMobil (dự án Cá Voi Xanh), là một tập đoàn dầu khí lớn của Mỹ (mà ngoại trưởng Rex Tillerson nguyên là CEO), và với OVL, là tập đoàn dầu khí quốc gia Ấn Độ, đã hợp tác dầu khí với Việt Nam từ năm 1988. Trong chuyến thăm Ấn Độ (3-5/7/2017) Phó Thủ tướng/Ngoại trưởng Phạm Bình Minh đã kêu gọi Ấn Độ có vai trò lớn hơn tại Biển Đông, bao gồm hợp tác dầu khí. Quyết định cho OVL kéo dài hợp đồng thêm 2 năm là một điều chỉnh chiến lược (“180 độ”), vì cách đây vài tháng, OVL đã thông báo ý định chấm dứt thăm dò dầu khí tại lô 128. Hiện nay, OVL giữ 45% cổ phần lô 6.1 (thuộc bể Nam Côn Sơn) và 100% lô 128 (ngoài khơi Phan Thiết). OVL đã hoàn thành khảo sát giai đoạn 1 tại lô 128 và sẽ tiếp tục đánh giá các cơ hội khai thác trong thời gian tới.
Bàn cờ dầu khí Biển Đông
Trung Quốc rõ ràng không hài lòng với Việt Nam vì hợp tác với ExxonMobil (lô 118), với OVL (lô 118), và Repsol (lô 136/03). Trung Quốc đã từng dọa các các công ty dầu khí đa quốc gia khác (như BP), phải bỏ ý định hợp tác với Việt Nam (trừ ExxonMobil). Tuy nhiên, Trung Quốc thường “mềm nắn rắn buông”, vì biết khó bắt nạt được ExxonMobil (đằng sau là ngoại trưởng Rex Tillerson) cũng như OVL (đằng sau là hải quân Ấn Độ).
Tuy lô 118 và 128 giáp với “đường lưỡi bỏ” nhưng lại gần bờ (dễ bảo vệ) trong khi lô 136/03 cách xa bờ gần 400 km. Có thể nói, Trung Quốc cho rằng lô 136/03 của Repsol tại bãi Tư Chính là khâu yếu nhất, dễ bắt nạt hơn các nơi khác. Nếu bắt nạt được Việt Nam và Repsol thì Trung Quốc mới có thể gây sức ép với ExxonMobil (Mỹ) và OVL (Ấn Độ), là hai cái gai nhọn cắm vào “lưỡi bò” của họ. Nếu hải quân Mỹ (và Ấn Độ) dám thách thức Trung Quốc, và nếu các cường quốc này liên minh với nhau để bảo vệ lợi ích kinh tế và chiến lược của họ tại Biển Đông, thì chắc Trung Quốc không dễ dàng bắt nạt được như hiện nay.
Nói cách khác, các cường quốc có lợi ích lâu dài tại Biển Đông cần liên minh với nhau, không phải chỉ vì mục đích khai thác dầu khí, mà còn vì các lợi ích chiến lược khác. Không phải chỉ có Repsol (Tây Ban Nha) và PVN (Việt Nam) mà ExxonMobil (Mỹ) và OVL (Ấn Độ), cũng như các đối tác quốc tế khác, phải tính toán lại bàn cờ dầu khí Biển Đông. Họ cần lập ra một tổ hợp quốc tế (international consortium) bao gồm ExxonMobil và OVL… có đủ sức mạnh răn đe để đối phó với tham vọng Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông.
Một mình Việt Nam và một đối tác chiến lược yếu như Tây Ban Nha, không đủ sức thách thức Trung Quốc. Thật là ngây thơ nếu nghĩ rằng Bắc Kinh có thể bỏ qua chuyện Hà Nội dám thách thức họ tại Biển Đông. Nếu Việt Nam đơn thương độc mã, thì chắc chắn Bắc Kinh dễ bắt nạt. Nhưng còn chưa rõ là liệu lần này Việt Nam chỉ tạm ngừng khoan thăm dò để hoãn binh (chiến thuật) hay dừng hẳn về lâu dài (chiến lược). Lúc này, nếu Việt Nam từ bỏ chủ quyền của mình tại bãi Tư Chính (lô 136/03), thì có thể sẽ mất cả Trường Sa.
Thật là ảo tưởng nếu nghĩ rằng Mỹ sẽ bênh vực và bảo vệ Việt Nam, trong khi chúng ta chưa phải là đồng minh chiến lược của họ. Nhưng nếu không có Mỹ (và Nhật) cùng các đối tác khác bênh vực, Việt Nam không thể một mình “đeo chuông vào cổ mèo” (belling the cat). Nói cách khác, tuy Việt Nam “muốn làm bạn với tất cả”, nhưng khi bị Trung Quốc bắt nạt thì vẫn rất cô đơn tại Biển Đông (như câu thành ngữ “lắm mối tối nằm không”).
Thày bói sờ voi
Tuy hầu hết các chuyên gia về Biển Đông đều khẳng định Việt Nam đã cho ngừng khoan thăm dò tại lô 136/03, nhưng họ lại đưa ra nhận định khác nhau. Theo Bill Hayton (BBC) Việt Nam quyết định ngừng vì sợ Trung Quốc tấn công Trường Sa, trong khi Reuters nhận xét là các tàu thăm dò dầu khí của Repsol vẫn đang hiện diện tại lô 136/03. Trong khi Bill Hayton cho rằng Việt Nam quyết định đầu hàng là thiếu khôn ngoan, thì Alexander Vuving lại cho là cần thiết, như một bước rút lui chiến lược vì tương quan lực lượng quá chênh lệch, chứ không phải đầu hàng. Carl Thayer tán thành nhận định đó, cho rằng Việt Nam không muốn hành động vội vàng khi tình thế rõ rang đang bất lợi cho mình (vì “lực bất tòng tâm”).
Theo Carl Thayer, Trung Quốc đã đe dọa thông qua Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh. Bộ Chính trị đã họp (14/07) và đồng ý ngừng khoan dầu khí. Theo Bill Hayton, 17/19 ủy viên BCT muốn tiếp tục khoan, nhưng có hai người không đồng ý (là TBT Nguyễn Phú Trọng và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch). Ngày 15/07, Hà Nội đã chính thức yêu cầu Repsol ngừng khoan tại Lô 136/03. Theo Bill Hayton, Hà Nội không tin Donald Trump có thể giúp trong tình hình hiện nay. Lập luận quan trọng nhất để thuyết phục lãnh đạo Hà Nội phải ngừng khoan lúc này là vì Việt Nam đang đối đầu với Trung Quốc một mình tại Biển Đông.
Theo BBC, Repsol đã khoan thăm dò và phát hiện được một mỏ khí tại lô 136/03 có trữ lượng khá lớn (trị giá hơn một tỷ USD). Phát hiện này chắc làm Việt Nam và Repsol vừa mừng vì giành được quyền khai thác, nhưng cũng vừa lo vì Trung Quốc càng có động cơ gây sức ép nhằm ngăn chặn khai thác (và tìm cách chiếm đoạt). Nếu Việt Nam đã cả gan thách thức Trung Quốc cho Repsol khoan thăm dò hơn một tháng qua, nhưng nay phải chấp nhận dừng lại, là do thế yếu và bị cô lập. Có thể Việt Nam đã tưởng rằng Mỹ và Nhật sẽ hỗ trợ kịp thời với những cam kết hợp tác an ninh có giá trị răn đe (sau chuyến thăm Mỹ và Nhật của ông Nguyễn Xuân Phúc). Nhưng đến nay vẫn chưa thấy Mỹ (hay Nhật) lên tiếng, mặc dù bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam đã gặp khẩn cấp đại sứ Mỹ tại Hà Nội (26/7/2017).
Nếu Việt Nam buộc phải yêu cầu Repsol dừng lại, thì có thể là kế hoãn binh (để chờ tìm kiếm sự hỗ trợ). Để giữ thể diện, Repsol lấy lý do thời tiết xấu. Dù thế nào, Việt Nam không thể dễ dàng bỏ cuộc vì nhu cầu cấp thiết phải có nguồn thu từ dầu khí. Khả năng hợp tác với Trung Quốc để cùng khai thác chỉ là ảo tưởng, cũng như ảo tưởng về COC (bộ quy tắc ứng xử) cho Biển Đông. Trước mắt, Repsol và Việt Nam đang trong tình thế khó xử, bị mắc kẹt như cưỡi trên lưng hổ. Có lẽ vì vậy mà họ phải im lặng, dù biết dư luận đang rất bức xúc.
Nếu đúng là Repsol đã khoan xong hai mũi thăm dò và phát hiện được một mỏ khí đốt có quy mô khá lớn ở lô 136/03, trị giá hàng tỷ USD (như BBC đưa tin), thì chắc là họ không thể dễ dàng bỏ cuộc một cách đơn giản. Nếu họ buộc phải tạm dừng trước sức ép của Trung Quốc, thì họ cũng phải làm tất cả những gì cần thiết để đảm bảo an toàn cho mỏ khí và cho quyền lợi của mình, vì Repsol đã đầu tư $300 triệu vào 9 lô tại bãi Tư Chính. Nếu Repsol không đủ sức một mình khai thác, trước đe dọa của Trung Quốc, vì Việt Nam cũng bị cô độc, thì tại sao họ không tìm kiếm sự liên kết và hộ trợ của các đối tác khác mạnh hơn, nếu không muốn bán lại dự án để thu hồi vốn. Đó không phải là chuyện lạ trong ngành dầu khí.
Theo Bill Hayton (Foreign Policy, July 31, 2017), Hà Nội muốn được Washington hỗ trợ để đối phó với sự đe dọa của Bắc Kinh, nhưng Washington không hiểu hoặc không quan tâm đến lợi ích của đối tác tiềm năng. Dưới thời Trump, Washington không sẵn sàng răn đe để bảo vệ đồng minh và đối tác. Tại sao như vậy? Tuy Rex Tillerson quá biết hệ quả của nó, nhưng người ta không rõ vì Nhà Trắng không muốn dính líu vào tranh chấp khu vực, hay Bộ Ngoại Giao thiếu năng lực vì bị cắt giảm nhân sự và ngân sách quá nhiều. Hay vì Tillerson muốn thấy Repsol (đối thủ cạnh tranh cũ) thất bại để ExxonMobil giành được lợi thế tại thị trường Việt Nam. Nếu thế thì tệ quá, vì chẳng ai còn tin vào ông Tillerson (hay Washington) nữa.
Dù vì lý do gì đi nữa, thì Chính quyền Donald Trump đang để Biển Đông và khu vực quan trọng này rơi vào tay Bắc Kinh, như một “chuyện đã rồi” (fait accompli). Một khi Hà Nội đã phải đầu hàng Bắc Kinh, không dám khoan dầu trong vùng thềm lục địa của mình thì Trung Quốc sẽ làm chủ Biển Đông và làm lại luật chơi ở đây. Tầu khoan HYSY760 được bảo vệ dày đặc sẽ tiến vào khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam để thăm dò dầu khí, như cái ao nhà mình. Nếu Việt Nam và Philippines bị khuất phục thì các nước khác sẽ ngả theo.
Tứ giác chiến lược
Môi trường an ninh Biển Đông lúc này hẫng hụt, để Trung Quốc thao túng, là do chưa kịp hình thành “Tứ giác Chiến lược” Mỹ-Nhật-Ấn-Úc (AJIA) trong khuôn khổ “đối tác chiến lược” (strategic partnership) trên cơ sở “Tầm nhìn Biển Đông” (South China Sea Vision) vì “an ninh tập thể”. Nếu Việt Nam liên kết được với tứ giác chiến lược đó, như một sự răn đe hiệu quả, vì an ninh tập thể Biển Đông, thì Trung Quốc không dễ dàng bắt nạt. Trung Quốc biết “mềm nắn rắn buông”, nên chỉ bắt nạt kẻ yếu chứ không dám bắt nạt kẻ mạnh.
Ngoài vị trí chiến lược có con đường hàng hải huyết mạch, Biển Đông còn là kho tài nguyên dầu khí (và hải sản) tương đương với trữ lượng tại vịnh Mexico. Để bảo vệ chủ quyền và tài nguyên tiềm tàng của mình tại Biển Đông, Việt Nam phải nâng cấp quan hệ với Mỹ lên thành đối tác chiến lược (như với Nhật Bản và Ấn Độ). Nhật Bản là một cường quốc Đông Á, nhưng có sứ mệnh và lợi ích chiến lược tại Biển Đông. Từ tháng 5/2017, tàu chở trực thăng Izumo (lớn nhất của Nhật) đã hộ tống một tàu tiếp liệu của Mỹ cập bến Cam Ranh, trong lộ trình hoạt động tại Biển Đông. Song song với cuộc tập trận chung của hải quân 3 nước Mỹ, Nhật, Ấn (Malabar 2017) tại vịnh Bangal (10-17/72017), hải quân Mỹ và Úc đã tập trận lớn (Talisman Saber 2017) kéo dài một tháng (từ 29/6/2017), huy động 21 tàu chiến, 200 máy bay, và 30.000 lính Mỹ và Úc. Hai cuộc tập trận này làm Trung Quốc quan tâm và lo ngại.
USS Gerald Ford: Sẽ đến Cam Ranh?
Việc hình thành “Tứ giác Chiến lược AJIA” tại Biển Đông là sống còn. Việt Nam cần liên kết với tứ giác chiến lượng đó không chỉ qua hợp tác dầu khí, mà còn qua hợp tác chiến lược để khai thác cảng quốc tế Cam Ranh (vì cả mục đích quân sự và thương mại). Lúc đó, nếu Trung Quốc đụng vào Việt Nam là đụng vào khối ẠJIA. Muốn bảo vệ chủ quyền quốc gia, Việt Nam phải dựa vào một thế lực răn đe hiệu quả, thông qua an ninh tập thể. Khác với Philippines, bi kịch của Việt Nam là tuy muốn đương đầu với Trung Quốc, nhưng lúc này lại rất cô đơn về chiến lược, vì “lắm mối tối nằm không”, lúc nguy cấp không ai cứu.
ASEAN khó có thể lên tiếng bênh vực Việt Nam khi một số thành viên đã bị Trung Quốc phân hóa và thao túng, như bó đũa bị xé lẻ và bẻ gãy (bên trong) chỉ còn cái vỏ đồng thuận (bên ngoài). Chừng nào Cộng đồng ASEAN vẫn bám giữ nguyên tắc “không can thiệp vào nội bộ”, thì mong muốn có một “Bộ Quy tắc ứng xử” (COC) với Trung Quốc chỉ là ảo tưởng. Tuy một mình Việt Nam không thể thách thức Trung Quốc để “đeo chuông vào cổ mèo”, nhưng Trung Quốc vẫn lo ngại Mỹ có thể lập ra một liên minh để đối phó với họ.
Vì vậy, chỉ dựa vào ASEAN là không đủ, vì ASEAN consensus rất yếu do bị Trung Quốc phân hóa. Quan hệ Trung Quốc-ASEAN tại Biển Đông đã làm ASEAN nhiễm bệnh. Nếu chỉ dựa vào Mỹ cũng không đủ, vì Washington rất bấp bênh (như Trumpism). Trong khi Nhà Trắng bấp bênh và Bộ Ngoại Giao lu mờ (như Foggy Bottom), Hà Nội phải tăng cường quan hệ với Quốc Hội (như John McCain), giới quân sự (như James Mattis) và Hải quân.
Giải pháp nào cho khủng hoảng
Nếu Việt Nam chọn giải pháp “mềm” (đầu hàng) thì Trung Quốc có thể lấn tới, đưa dàn khoan cắm sâu vào trong vùng EEZ của Việt Nam, và nếu có thể thì sẽ khoan thăm dò và khai thác. Nếu Việt Nam chọn giải pháp “cứng” (đương đầu), thì có thể dẫn tới xung đột vũ trang với Trung Quốc tại Biển Đông. Bi kịch của Việt Nam lúc này là không thể đầu hàng (vì hết chỗ lùi) nhưng cũng không thể đương đầu (một mình) vì đúng lúc khẩn thiết thì lại thiếu hụt sự hỗ trợ (của Mỹ) khi so sánh lực lượng tại Biển Đông quá chênh lệch.
Nhưng tại sao Trung Quốc tập trung lực lượng gây sức ép với Repsol tại bãi Tư Chính (lô 136/03) mà không gây sức ép với ExxonMobil tại mỏ khí Cá Voi Xanh (lô 118) hay với OVL (lô 128)? Đơn giản vì bãi Tư Chính là khâu yếu nhất, khó bảo vệ vì xa bờ (cách Vũng Tầu gần 400km), và đối tác Repsol (Tây Ban Nha) yếu hơn (phụ thuộc vào Việt Nam bảo vệ). Trong khi đó, mỏ Cá Voi Xanh (lô 118) của ExxonMobil cách Đà Nẵng có 88km, và lô 128 của OVL cách Phan Thiết hơn 100km. Nếu Trung Quốc đụng vào ExxonMobil là đụng vào Hải Quân Mỹ (và Rex Tillerson). Nếu đụng vào OVL là đụng vào hải quân Ấn Độ. Vì Trung Quốc thường “mềm nắn rắn buông, nên muốn “rắn” thì Việt Nam phải liên kết với các đối tác Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc, và các cường quốc khác có lợi ích chiến lược tại Biển Đông.
Ngay từ tháng 4/2017, bộ trưởng Quốc Phòng James Mattis đã trình tổng thống Mỹ một kế hoạch đối phó với các đòi hỏi quá đáng của Trung Quốc tại Biển Đông. Ông Mattis không muốn phê duyệt từng chiến dịch riêng lẻ (như thời Obama), mà muốn có một kế hoạch tổng thể. Dưới thời Obama, Lầu Năm Góc đã gửi Hội Đồng An Ninh Quốc Gia yêu cầu tiến hành bảo vệ tự do hàng hải (FONOP), nhưng các đề nghị này đã bị chặn lại, trong khi Trung Quốc rốt ráo bồi đắp các đảo nhân tạo và quân sự hóa Biển Đông. Trong kế hoạch mới được tổng thống Donald Trunp chấp thuận, Hạm Đội 7 sẽ là nơi đề xuất chiến dịch tuần tra.
Ngày 22/7/2017, hải quân Mỹ được tăng cường thêm tàu sân bay mới “USS Gerald Ford” (trọng tải 100.000 tấn, trị giá $13 tỷ). Số tàu ngầm hạt nhân sẽ tăng từ 30 chiếc lên 48 chiếc (60%). Không chỉ hải quân Mỹ, mà hải quân các nước khác (như Nhật, Ấn, Úc, Anh) cũng cam kết sẽ tăng cường có mặt tại Biển Đông. Hải quân Anh thông báo cuối năm nay sẽ nhận thêm 2 tàu sân bay mới “HMS Queen Elizabeth & HMS Prince of Wales” (trọng tải 65.000 tấn, lớn nhất của hải quân Anh). Theo báo Guardian (27/7/2017) Ngoại trưởng Boris Johnson cam kết năm 2018 sẽ đưa 2 tàu sân bay mới tới Biển Đông để thực thi quyền tự do hàng hải.
Nếu để Trung Quốc thay đổi nguyên trạng Biển Đông, bắt nạt Việt Nam tại bãi Tư Chính, cấm Việt Nam thăm dò dầu khí và đánh cá trên vùng biển của mình, được luật biển quốc tế thừa nhận, thì Việt Nam có thể mất 40% vùng Đặc quyền Kinh tế. Nếu Hà Nội mắc sai lầm này, sẽ càng bị cô lập, khó tìm được lối thoát, dẫn đến kết cục nguy hiểm hơn về lâu dài. Theo Carl Thayer, Việt Nam chỉ có ba sự lựa chọn: Thứ nhất, trong khi tạm ngừng thăm dò, Việt Nam cần kiên định trước sự đe dọa của Trung Quốc; Thứ hai, Việt Nam cần công khai sự việc để tranh thủ dư luận quốc tế ủng hộ; Thứ ba, Việt Nam cần thảo luận các phương án với Mỹ, hy vọng những người nắm quyền lực ở Washington hiểu vấn đề và ủng hộ.
Tầm nhìn Biển Đông
Có thể nói, nếu không có sự kiện dàn khoan HD 981 (5/2014), tạo ra cú sốc và bước ngoặt lớn trong quan hệ Trung-Việt thì chưa chắc TBT Nguyễn Phú Trọng đã đi thăm Mỹ (7/2015) và được đón tiếp (tại phòng Bầu Dục) như nguyên thủ quốc gia. Trước đó, bộ trưởng bộ công an Trần Đại Quang đã thăm Mỹ gần một tháng. Quan hệ Mỹ-Việt đã có bước thay đổi về chất: Trong khi quan hệ Trung-Việt từ “Đồng sàng biến thành dị mộng” thì quan hệ Mỹ-Việt từ “dị mộng biến thành đồng sàng”. Alexander Vuving từng nhận xét rằng quan hệ Trung-Việt nay tách xa hơn “nhưng không quá xa”, còn quan hệ Mỹ-Việt nay gần hơn “nhưng không quá gần”. Tuy nhiên, sau khi tổng thống Obama thăm Việt Nam (5/2016) và thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm Mỹ, gặp Tổng thống Donald Trump (1/6/2017) thì hai nước hầu như đã trở thành đối tác chiến lược “trên thực tế” (de facto). Thế cân bằng tĩnh đang bị phá vỡ, biến tam giác cân “Mỹ-Trung-Việt” trở thành tam giác “bất cân xứng” đầy biến động.
Biển Đông đầy ẩn số và biến số khó lường. Khủng hoảng bãi Tư Chính hiện nay là một biến số đầy rủi ro tiềm ẩn. Nhưng sự kiện Trung Quốc tổ chức đại hội Đảng 19 vào cuối năm nay, và Việt Nam chủ trù hội nghị cấp cao APEC vào tháng 11 này là cái phanh hãm, không để khủng hoảng biến thành xung đột vũ trang, vì cả hai bên chưa sẵn sàng. Tuy nhiên, đây lại là lúc Trung Quốc cần diễu võ dương oai vì lý do chính trị và để bắt nạt Việt Nam. Nếu Trung Quốc bắt nạt được Việt Nam và Tây Ban Nha (tại lô 123/03), thì họ có thể tiến lên dằn mặt Ấn Độ (tại lô 128) và Mỹ (tại lô 118) để nhổ ba cái gai nhọn cắm vào “lưỡi bò” của họ. Nếu nhổ được mấy cái gai đó và khống chế được Trường Sa thì họ sẽ làm chủ Biển Đông. Cũng như Scarborough Shoal, bãi Tư Chính (Vangurd Bank) là “làn ranh đỏ” (red line), có ý nghĩa địa chiến lược. Nếu Mỹ và Việt Nám (cùng đồng minh) để mất bãi Tư Chính vào tay Trung Quốc như Scarborough (2012) thì sẽ là một sai lầm chiến lược mới, mà hệ quả chưa lường được.
Vậy muốn giữ bãi Tư chính và Trường Sa thì phải làm thế nào, trước sức ép ngày càng tăng của Trung Quốc? Trong cuộc khủng hoảng lần thứ nhất, Trung Quốc đã tập trung hơn 100 tàu hộ tống dàn khoan HD 981. Trong cuộc khủng hoảng lần này, họ tập trung gần 200 tàu (gần gấp đôi) cùng với HYSY 760. Tuy Trung Quốc có lợi thế về số đông áp đảo (như “dân quân biển”), và giành được thế thượng phong tại Biển Đông vì họ quân sự hóa được các đảo nhân tạo tại Trường Sa (cũng như Hoàng Sa) thành một thế trận liên hoàn, nhưng họ lại yếu về ba thứ khác, mà Mỹ (và đồng minh) có thể vượt trội. Đó là (1) lực lượng tàu ngầm, (2) tàu sân bay, và (3) Cam Ranh. Nếu Mỹ biết liên kết sẽ giành lại được thế thương phong.
HMS Queen Elizabeth: Sẽ đến Biển Đông?
Khi tổng thống Donald Trump đến Đà Nẵng dự hội nghị APEC (11/2017), khủng hoảng Biển Đông có thể phủ bóng đen lên sự kiện quan trọng này. Đây chính là lúc và là nơi Mỹ và các đồng minh khu vực liên kết với nhau (như tứ cường Mỹ-Nhật-Ấn-Úc) vì an ninh Biển Đông. Đó là một dịp tốt để tàu sân bay Mỹ đến thăm Cam Ranh, thực hiện Tuyên bố chung Mỹ-Việt. Tiếp theo Mỹ và Nhật, sẽ là tàu sân bay của Ấn Độ và Anh (như họ vừa tuyên bố). Hợp tác hải quân của bốn cường quốc đó tại Biển Đông chắc sẽ tăng lên, cùng với kế hoạch phối hợp tuần tra và diễn tập trong khuôn khổ hợp tác chiến lược, vì an ninh Biển Đông.
Tuy nhiên, hai điều cơ bản đang cản trở Việt Nam tham gia quá trình hội nhập quốc tế vì chủ quyền quốc gia và an ninh Biển Đông là vấn đề nhân quyền và tham nhũng. Tuy nhân quyền và tham nhũng là vấn đề của nhiều nước, và 25% hoa hồng cho mỗi hợp đồng mua bán vũ khí có thể là thông lệ của các nước tham nhũng và độc tài, nhưng với tình thế đang bị mắc kẹt và cô đơn về chiến lược như hiện nay, hai vấn đề trên là những cản trở (deal breaker) đối với lợi ích quốc gia của Việt Nam và an ninh Biển Đông. Hay nói cách khác, nếu Việt Nam vẫn bám giữ hai điều trên, thì chẳng khác gì lấy súng tự bắn què chân của mình.
Thay lời kết
Muốn bảo vệ được lợi ích khai thác dầu khí cũng như các lợi ích chiến lược khác tại Biển Đông, các quốc gia liên quan phải gắn hợp tác kinh tế với hợp tác chiến lược, trong “Tầm nhìn Biển Đông”. Trước mắt, để tăng cường hợp tác chiến lược tại Biển Đông, theo hướng cộng tác cùng có lợi, thì ExxonMobil (Mỹ), OVL (Ấn Độ), Repsol (Tây Ban Nha) và PVN (Vietnam) nên gấp rút thương lượng, lập một tổ hợp quốc tế (internationmal consortium) để đầu tư thứ cấp (farming in) vào dự án Repsol (lô 136/03). Chỉ bằng cách đó thì các đối tác mới bảo vệ được lợi ích của họ, và Việt Nam mới bảo vệ được chủ quyền quốc gia của mình.
Về lâu dài, muốn có hòa bình, ổn định để hợp tác tại Biển Đông, trước hết phải có sức mạnh răn đe. Vì vậy, đã đến lúc “Con Bò tót Tây Ban Nha” (Repsol) phải liên minh với “Con bò mộng Mỹ” (ExxonMobil) và với “Con voi Ấn Độ” (OVL), nếu họ muốn khai thác tài nguyên năng lượng ở Biển Đông. Đối với Việt Nam, an ninh năng lượng là an ninh quốc gia, và an ninh Biển Đông cũng là an ninh khu vực, trước mối đe dọa của Trung Quốc.
Tuy lúc này Việt Nam đang cô đơn về chiến lược, phải một mình đối phó với Trung Quốc, nhưng không thể đầu hàng, vì để mất bãi Tư Chính thì Việt Nam có thể mất cả Trường Sa. Đối với Mỹ, Nhật, Ấn Độ, và Úc, cũng như các nước khác có lợi ích lâu dài tại Biển Đông, thì để mất bãi Tư Chính là một sai lầm chiến lược (như mất Scarborough Shoal), đồng nghĩa với chấp nhận để Trung Quốc kiểm soát Biển Đông như cái ao riêng của họ.
Tham khảo:
1. Bill Hayton, “South China Sea: Vietnam halts drilling after China threats”, BBC, July 24, 2017; “Việt Nam đang thân cô, thế cô”, BBC, July 29, 2017
2. Bill Hayton, “The Week Donald Trump Lost the South China Sea”, Foreign Policy, July 31, 2017
3. Carl Thayer, “Alarming Escalation in the South China Sea: China Threatens Force if Vietnam Continues Oil Exploration in Spratlys”, Diplomat, July 24, 2017;
4. Carl Thayer, “South China Sea: Did China Threaten Force? “Why Did Vietnam Suspend Oil Drilling in Block 136-03?”, Thayer Consultancy, July 25, 2017
5. Carl Thayer, “Vietnam’s strategies in the South China Sea”, EastAsiaForum, July 28, 2017
6. Michael Martina & Mathew Tostevin,“China urges halt to oil drilling in disputed South China Sea”, Reuters, July 25, 2017
7. Helen Clark, “China-Vietnam: comrades until it comes to oil & gas”, Asia Times, July 27, 2017
8. Phillip Orchard, “Taking China’s Maritime Threats Seriously”, GPF, July 27, 2017
31/7/2017
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 31-7-17