Minh Văn - Chúng ta ai cũng hiểu rằng tự do là khát vọng của mọi dân tộc và công dân sống trên trái đất này. Nó đại diện cho những giá trị nhân văn cao đẹp của con người. Một xã hội văn minh, một cuộcsống tốt đẹp và nhân bản luôn được tồn tại dựa trên nền tảng của sự Tự do!
*
Tự do đồng nghĩa với Tiến bộ và Văn minh
Thước đo sự tiến bộ và văn minh của một xã hội được nhìn nhận, đánh giá thông qua những giá trị tự do mà nó có được. Những giá trị đó tỉ lệ thuận với trình độ phát triển của các thành tựu văn minh con người, nó tự thân khẳng định trong mọi môi trường lịch sử cũng như bối cảnh xã hội.
Trong những quốc gia văn minh, tự do đã trở thành một thứ quyền thiêng liêng và không thể chối cãi của con người. Nó tồn tại trong các định chế của pháp luật, trở thành văn hoá ứng xử của các thành viên xã hội. Khái niệm tự do được hiểu và phát triển mạnh mẽ nhất từ khi các cuộc cách mạng dân chủ tư sản bùng phát ở Tây Âu. Và từ đó khái niệm “Tự do” trở thành tâm điểm cũng như mục đích của mọi cuộc cách mạng và cải cách xã hội.
Tự do là cha đẻ của sáng tạo, và tư duy sáng tạo là cội nguồn của sự tiến bộ. Thiếu nó thì xã hội loài người không phát triển được, bởi sẽ không có những phát minh thuộc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hay nói cách khác, không có tự do thì xã hội loài người dẫm chân tại chỗ bởi sự kìm hãm của màn đêm hoang dại. Chúng ta có thể phân loại tự do thành hai khái niệm chính là: tự do tư tưởng và tự do thân thể.
Xã hội loài người phát triển được là nhờ tư duy sáng tạo và phát minh của chính mình. Khi các nền sản xuất và văn hoá phát triển đến một trình độ nhất định thì xuất hiện những cuộc cách mạng để thúc đẩy xã hội tiến lên một trình độ cao và tiến bộ hơn. Các cuộc cách mạng xã hội và khoa học kỹ thuật là những minh chứng cho điều đó. Có tự do thì có sự tiến bộ, một quốc gia hay vùng lãnh thổ vì thế mà trở nên văn minh bởi những giá trị nhân văn mà các giá trị của tự do mang lại.
Tự do có ở đâu?
Thực chất của tự do là cái bên trong của nhân cách con người. Con người có khả năng bẩm sinh ứng xử theo mục đích và theo những cách thức phù hợp với mục đích đó, vì thế cần có pháp luật để điều chỉnh hình thức bên ngoài các hành vi của con người để có tính tuân thủ chung. Đó là tự do ở phương diện cá nhân con người.
Ở phương diện xã hội thì tự do chỉ được tồn tại và sinh ra trong một môi trường mà các giá trị tiến bộ không bị cấm đoán và ngăn cản, và nơi đó chỉ có thể là một chế độ xã hội tự do dân - chủ mà thôi. Một khi tư tưởng con người không bị cấm đoán hoặc gâycản trở bởi hệ thống pháp luật phản dân chủ, cũng như những ràng buộc phi lý khác từ phía xã hội mà họ đang sống thì đồng nghĩa với sự tự do tư tưởng. Mỗi cá nhân sẽ là chính mình khi sức mạnh trí lực của họ được phát huy, vì thế sẽ đóng góp hết năng lực của mình cho xã hội, dân tộc cũng như nhân loại. Điều đó có được là nhờ các quyền tự do của con người được đảm bảo và phát huy. Vì vậy cũngcó thể nói: một dân tộc tự do là một dân tộc giàu mạnh và văn minh.
Để tiến đến một xã hội tự do và tiến bộ thì nhân loại đã trải qua những cuộc đấu tranh cam go và quyết liệt để những giá trị cao quý đó được khẳng định và tồn tại. Các giá trị của tự do luôn gặp phải những thế lực phản động ngăn cản và cấm đoán. Tuy nhiên “Tự do” là một chân lý hiển nhiên, toả sáng bởi giá trị nhân văn và luôn được con người khao khát hướng tới. Tự do cá nhân là nền tảng tư tưởng của một xã hội và là mục đích của các nhà nước dân chủ.
Nếu người Việt chúng ta muốn có các giá trị của tự do hiện diện trên tổ quốc mình thì phải tranh đấu để xây dựng một xã hội dân chủ làm nền tảng. Vì đó là cái nôi để sản sinh các giá trị tự do cao đẹp, những giá trị mà trong đó chứa đựng chìa khóa cho cuộc sống hạnh phúc con người.
Vì sao các chế độ độc tài căm ghét tự do?
Các thế lực phản dân chủ nhất định không thể tồn tại trong một thế giới mà những giá trị tự do được đề cao và phát triển. Chế độ độc tài là đại diện tiêu biểu cho những thế lực phản động đen tối đó. Có chế độ độc tài thì không thể có dân chủ và ngược lại, đây là hai khái niệm chính trị đối lập nhau. Một xã hội dân chủ đồng nghĩa với việc người dân làm chủ đất nước và quyết định mọi vấn đề liên quan đến cá nhân và cộng đồng. Dân chủ là nền tảng của tự do và nhân quyền. Khi con người có được tự do thì việc ý thức và sử dụng các quyền nhân thân là một điều hiển nhiên, và đó là điều mà các nhà nước độc tài rất lo sợ. Họ căm tức khi thấy người dân hiểu được những giá trị của sức mạnh bản thân, và muốn người dân ngu dốt để trở nên phụ thuộc. Lo sợ người dân sử dụng các quyền tự do của mình để đấu tranh lật đổ họ, ít nhất là hạn chế quyền lực của nhà nước. Kẻ độc tài bao giờ cũng muốn nắm trọn quyền lực và hạn chế các quyền tự do của người dân chừng nào còn có thể. Người dân càng ít được hưởng các quyền tự do cá nhân thì quyền lực của nhà nước chuyên chế càng mạnh và vị trí của họ càng được củng cố. Đó là lý do vì sao các chế độ độc tài lo sợ người dân của mình có được tự do, dân chủ. Các nhà nước dân chủ coi tự do là lý tưởng và mục tiêu cho sự phát triển, trái ngược với điều đó – nhà nước độc tài cấm đoán và hạn chế các quyền tự do của con người.
Tự do bị giam cầm
Nhà nước độc tài giam cầm tự do vì sợ sức mạnh của chân lý mà nó sở hữu. Việc làm đó của họ đã vô tình thừa nhận và đề cao tự do, một giá trị tồn tại không phụ thuộc vào môi trường cũng như không gian vì những giá trị cao đẹp của nó. Những kẻ nắm giữ quyền lực nhà nước theo đường lối chuyên chế vi phạm nghiêm trọng các quyền con người, cấm đoán tự do và dân chủ. Điều đó đồng nghĩa với việc một nhóm thiểu số cầm quyền đã vi phạm và chà đạp lên lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân để phục vụ cho những lợi ích xấu xa và phản động. Để thực hiện được ý đồ đó, họ đã giam cầm tự do trong một hệ thống pháp luật lừa bịp và phản dân chủ, cùng với một bộ máy nhà nước độc tài đàn áp. Tất cả chìm ngập trong bóng đêm bởi người dân bị vây kín bởi một bức màn sắt của quyền lực và sự giả dối. Và tự do đã bị giam cầm trong tù ngục của những kẻ độc tài. Điều đó được chính quyền thực hiện bằng những biện pháp sau:
Cấm đoán và trói buộc tư tưởng
Có lẽ đó là hành động độc ác và xấc xược nhất của một chế độ chuyên chế đối với các giá trị tự do của con người. Người dân bị giám sát và trói buộc ngay cả trong suy nghĩ, họ không được nói hay suy nghĩ những gì mà nhà cầm quyền không muốn, dù đó là những điều tốt đẹp thuộc về chân lý. Tư duy bị cấm đoán thì sẽ dẫn đến hành động bị cấm đoán, vì người ta ngay cả trong suy nghĩ cũng bị giám sát thì làm sao có thể đi đến hành động? Nhà nước độc tài cấm người dân của mình được tìm hiểu hay tiếp cận bất kỳ học thuyết tư tưởng nào ngoài cái học thuyết phản độngmà nhà nước đang áp dụng để cai trị đất nước. Vì họ sợ rằng các đảng phái khác xuất hiện thì sẽ chiếm mất quyền lực của họ và vạch trần bộ mặt sai trái và lừabịp của nhà cầm quyền. Vì thế họ thực hiện cái điều gọi là “định hướng tư tưởng và dư luận” để kiềm toả người dân.
Đàn áp và bỏ tù những người tranh đấu cho tự do
Những người đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam được mọi người gọi là “Nhà Dân chủ”. Họ là hiện thân cho các giá trị tự do đang bị nhà cầm quyền cấm đoán và trói buộc. Ngoài việc giam cầm tự do của người dân trong một nhà tù lớn là đất nước, thì họ tiến hành bắt giam và bỏ tù các nhà đấu tranh cho dân chủ thông qua những phiên toà xét xử phi lý được dàn dựng một cách trơ trẽn. Những con người yêu nước và tiến bộ đó được gán ghép cho những tội danh mà đáng ra phải dành cho nhà nước độc tài.
Cướp đi tất cả các quyền tự do căn bản của người dân
Các quyền tự do căn bản của công dân được công ước quốc tế thừa nhận đã bị đánh cướp và vi phạm một cách trắng trợn, có hệ thống từ phía nhà cầm quyền. Tại sao họ lại phải hành động như vậy? Vì nhà nước độc tài sợ người dân sẽ sử dụng các quyền ấy để đấu tranh chống lại họ.
Tuyên truyền và lừa bịp
Song hành với những biện pháp trên là hành động tuyên truyền bịp bợm của chế độ hòng lừa dối và bịt mắt người dân nước mình. Việc làm đó của họ không ngoài mục đích để người dân chìm ngập trong màn đêm của sự ngu dốt không lối thoát, vì thế mà rơi vào vòng cai trị của nhà nước độc tài. Điều đó được thực hiện qua hệ thống truyền thông của chế độ cùng với bộ máy nhà nước cai trị được lập ra.
Liệu tự do có được tự do?
Tình thế đó đưa người dân đến một bối cảnh không lối thoát. Chế độ độc tài nắm toàn bộ quyền lực trong tay, và đó là một cuộc chiến không cân sức cho những ai muốn vươn tới tự do. Người dân không thể làm được điều đó nếu như chưa đoàn kết lại để cùng vượt qua nổi sợ hãi mà chế độ độc tài đang gieo rắc khắp đất nước. Sớm hay muộn thì những người dân Việt Nam cũng sẽ tìm đến được với lý tưởng tự do của mình, đến với những giá trị đích thực mà con người cần phải có. Bản thân tự do là tuyệt đối, nó không thể bị cầm tù. Dù rằng những hiện thân của tự do đang bị giam giữ thì ngay trong chốn lao tù sức mạnh của chân lý càng trở nên sáng rõ, làm cho những kẻ đại diện cho bạo quyền phải run sợ.
Khi người dân Việt Nam đoàn kết để tranh đấu cho các quyền tự do, dân chủ của mình thì Tự do sẽ được tự do như ý nguyện. Những giá trị vĩnh hằng của con người sẽ được giải phóng và thuộc về sở hữu của người dân. Nhân dân Việt Nam sẽ lấy lại những gì lẽ ra phải thuộc về họ, đó là sự tự do đối với các giá trị tinh thần cùng những lý tưởng tốt đẹp cho cuộc sống tương lai.
26/6/2011