Phan Thế Hải - Cứ như những thằng đi biển có nghề thì vịnh Dung Quất chẳng có gì là địa lợi cả.Vịnh hình móc câu, chỉ chắn được gió đông Nam, còn với gió đông bắc thì lãnh đủ. Muốn làm cảng nước sâu, phải đầu tư kè chắn sóng cực kỳ tốn kém. Đó là chưa nói đến chuyện, đáy vịnh thường xuyên bị sa bồi bởi sông Trà Bồng đổ ra vịnh.
Thêm vào đó, Bình Sơn là huyện nghèo ven biển, hạ tầng đơn sơ, dường như chưa có cơ sở dịch vụ nào đáng kể. Tháng 2/2004, hợp đồng phát triển thiết kế tổng thể giữa PetroVietnam và Technip được PetroVietnam chấp thuận.
Tháng 11/2005 lễ khởi công các gói thầu quan trọng nhất của dự án mới được tiến hành, sau hơn một năm chờ đợi Chính phủ phê duyệt. Đến thời điểm này, kinh phí đầu tư của dự án không còn là 1,297 tỉ USD nữa, mà đã vọt lên tới 2,501 tỉ USD.
Nguyên nhân: USD mất giá so với đồng euro; giá cả thiết bị nhà máy lọc dầu trên thị trường thế giới tăng mạnh, là những nguyên nhân chính. Cùng với đó, do tầm nhìn hạn hẹp về nhu cầu thị trường và sự áp đặt chủ quan để làm cho dự án được khả thi, cũng góp phần không ít vào sự thay đổi này.
Trước đây, theo thiết kế, đến 80% xăng của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất là xăng Mogas 82. Đây là cấp sản phẩm mà ngày nay đã không còn xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Do vậy, trong quá trình đàm phán với Technip, Việt Nam đã phải bổ sung vào thiết kế hai phân xưởng kỹ thuật nhằm loại bỏ hoàn toàn xăng Mogas 82 trong danh mục sản phẩm để thay bằng loại xăng Mogas 92 và 95.
Quyết định này cũng đồng nghĩa với việc tăng chí phi khoảng 200 triệu USD. Ngoài ra, chủ đầu tư còn phải tăng dự toán cho hàng loạt hạng mục đầu tư khác, như đê chắn sóng, cảng xuất, nhập nguyên liệu và thành phẩm, thuê tư vấn giám sát...
Bạn Chủ tịch, một chuyên gia của PetroVietnam cho biết, ngay từ đầu bản thiết kế nguyên thủy của một tập đoàn Mỹ xây dựng đã có hai phân xưởng kỹ thuật, nhưng để cho dự án được khả thi về kinh tế, người ta đã cắt xén phần thiết kế và khi dự án được chuyển giao cho liên doanh Vietross, hai phân xưởng này đã không còn. Đó là nguyên nhân dự toán kinh phí đầu tư chỉ còn gần 1,3 tỉ USD, giảm 200 triệu USD so với dự trù trước đó.
Không chỉ đội chi phí, kế hoạch về tiến độ thực hiện dự án cũng liên tục bị phá vỡ. Điều này không chỉ gây lãng phí vốn đầu tư, do công trình chậm đưa vào khai thác, mà còn làm cho Việt Nam mất đi cơ hội khiến dự án trở nên hiệu quả (nhờ biến động về giá cả vật tư, thiết bị của thị trường nên giá trị nhà máy trở nên rẻ).
Từ năm 2002-2005, đồng Euro tăng mạnh so với đô la Mỹ, kéo theo giá thiết bị nhà máy lọc dầu (quy về USD) leo thang với mức tăng của nhiều loại thiết bị lên đến 160-300%.
Nếu dự án không bị chậm trễ và mọi thủ tục thẩm định, phê duyệt được thực hiện nhanh chóng hơn, xứ ta đã có một nhà máy lọc dầu công suất 6,5 triệu tấn/năm với chỉ 1,5 tỉ USD. Với chi phí này, chắc chắn lọc dầu Dung Quất đã có hiệu quả.
Tuy nhiên, 2,501 tỉ USD vẫn chưa phải là mức chi phí cuối cùng. Đến tháng 8/2010, Chính phủ phải quyết định tăng thêm gần 553 triệu USD nữa vào tổng dự toán của dự án lọc dầu Dung Quất. Theo giải thích của lãnh đạo tập đoàn Dầu khí Việt Nam, việc bổ sung này nhằm “phù hợp với tình hình biến động giá cả và tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành 100% công suất của dự án”.
Như vậy, tổng mức đầu tư của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đến nay là 3,054 tỉ USD, trong đó phần xây lắp và thiết bị gần 2,7 tỉ USD, chi phí tài chính 90 triệu USD, vốn lưu động 200 triệu USD và còn lại là chi phí dự phòng và hỗ trợ cho các hộ dân phải di dời khỏi phạm vi dự án.
Ngày 22/02/2009, sau gần 15 năm kể từ khi Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất mới cho ra đời lô sản phẩm đầu tiên. Những tưởng mọi khó khăn của dự án đã qua đi, nhưng sự cố mới lại nảy sinh và đến nay, hơn một năm kể từ ngày cho ra đời sản phẩm, nhà thầu Technip vẫn chưa thể bàn giao nhà máy cho chủ đầu tư.
Sự cố bắt đầu từ 14/08/2009, khi một van ở phân xưởng cracking xúc tác bị hư, nên nhà máy phải ngừng hoạt động một tháng rưỡi để sửa chữa. Sau khi vận hành trở lại, nhà máy lại tiếp tục phải dừng để giải quyết hơn 170 lỗi kỹ thuật phát sinh trong quá trình vận hành thử.
Ngày 25/02/2010, thời hạn cuối cùng để bàn giao nhà máy, theo yêu cầu của Chính phủ, tiếp tục trôi qua và đến cuối tháng 3/2010 vẫn còn khoảng 100 lỗi kỹ thuật. Theo báo cáo của Hội đồng Nghiệm thu nhà nước, các lỗi kỹ thuật xảy ra ở phân xưởng lưu huỳnh, phân xưởng trung hòa kiềm, xưởng cracking xúc tác, thiết bị ngưng chân không, máy nén khí tại phân xưởng sản xuất ni tơ, ống gia nhiệt tại bể chứa dầu thô...
Việc khắc phục các lỗi này có thể phải kéo dài tới tháng 10/2011. Tuy việc khắc phục thuộc trách nhiệm của nhà thầu, nhưng nó cũng gây thiệt hại cho chủ đầu tư vì không thể vận hành nhà máy hết công suất. Một đống tiền bỏ ra không sinh lợi như dự toán.
Dù sao, lỗi kỹ thuật cũng chỉ là khó khăn tạm thời. Vấn đề lớn hơn hiện nay chính là ở hiệu quả của dự án. Xứ người, xây nhà máy cỡ đó chỉ hết xấp xỉ 2 triệu đô, còn xứ ta, con số đầu tư gần gấp đôi.
Hòng cứu vãn danh dự, Xứ Thiên đường hiện đang ban phát nhiều ưu đãi cho các sản phẩm của nhà máy Dung Quất. Trong đó có việc miễn giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu và thành phẩm. Nhờ đó, giá thành sản phẩm của nhà máy tạm thời cạnh tranh được với xăng, dầu nhập khẩu.
Dẫu sao thì Quốc doanh vẫn phải chủ đạo, kể cả chủ đạo trong việc được hưởng ân huệ về chính sách thuế và đầu ra sản phẩm.
P.T.H.