Hành Khất (danlambao) - Hai chữ "huyền thoại" đã tạo nên những sự kiện dường như trái ngược, hay thêm bớt, theo chỉ đạo lèo lách một cách rất sáng tạo trong sáng tác qua cảm hứng được phóng bút của người viết. Tất cả tạo nên "huyền thoại Đường Hồ Chí Minh trên Biển" như là một trong hàng ngàn "huyền thoại" khác được sản xuất trong suốt nhiều thập niên qua...
*
Sự kiện (1) : thời điểm
chuyển hướng
Sự kiện (2) : thời điểm bị địch phát hiện, vượt thoát và thả hàng
Sự kiện (3) : đối địch
Sự kiện (4) : quyết định hủy tàu
"Kỳ 4 : Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử" :
"Anh có ý định phá vòng
vây bởi ngoài khơi dễ cơ động, nếu cần thì áp sát tàu địch và cho nổ tàu tiêu
diệt bọn chúng. Nhưng rất không may, lúc đó máy tàu hỏng nặng. Ý
định phá vòng vây không thành.
" Anh chỉ huy cho tàu di
chuyển vào sát bờ. Lúc đó chừng 2 giờ 20 phút, tàu cách bờ hơn 100 mét, anh tổ
chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, sau đó ra lệnh chuẩn bị điểm
hỏa cho nổ tàu."
"Kỳ 4 : Nhớ mãi tên anh" :
" Biết
không thể thoát khỏi vòng vây của địch được nữa, Nguyễn Phan Vinh hội ý với anh em và ra quyết định hủy tàu
để không lọt vào tay địch."
"Tàu 235 và trận chiến sinh tử" :
"Thấy tàu Việt Cộng hành động quyết liệt, các tàu địch còn lại không dám lại gần.
Đây là thời cơ để chúng tôi thực hiện
phương án 3, hủy nổ tàu để bảo đảm bí mật về “đường mòn trên biển”."
Theo
"NPV, bản hùng ca bất tử" vì
lúc đó máy tàu hư nặng không thể phá vòng vây ra ngoài khơi, nên phải bắt buộc
cho nổ tàu, sau khi tải người đã hy sinh và bị thương vào bờ trước.
Nhưng
theo "Nhớ mãi tên anh" thì
cho rằng vì cuộc chiến không cân sức, và biết rằng không thể thoát khỏi vòng vây
- có thể không phải con tàu bị hư hại nặng - nên Thuyền trưởng NPV "phải hội
ý" và cuối cùng quyết định hủy tàu.
Và
theo "Tàu 235 và trận chiến sinh tử"
vì các tàu địch còn lại không dám đến gần, nên tàu 235 lợi dụng thời cơ đó, thực
hiện phương án 3 là hủy tàu, dù đã chống trả một cách quyết liệt.
Qua
3 đoạn trích trên cho cùng một sự kiện, nhưng sự việc diễn tiến hoàn toàn mâu thuẫn nhau qua các lý do cho thực hiện phương án hủy tàu. Vấn đề có thể đặt ra
là "sự kiện hủy tàu có thực sự xảy ra không, hay chỉ là cách ngụy tạo để
che giấu cho sự thất bại chiến dịch vận chuyển vũ khí làm hao tốn tài vật và đồng
thời mượn cớ nhằm đánh bóng thêm những thành tích anh hùng của đảng ?"
Những
con tàu dù đến được bến hẹn hay không nhưng một khi bị phát hiện là không còn cách
vượt thoát ra khơi. Vì tốc độ của một con tàu để vận chuyển hàng hoá nặng như
xe tải loại kéo thì tốc độ không thể nhanh hơn những con tàu duyên tốc đĩnh,
hay tuần duyên hạm v.v, dù giả như lúc đó con tàu sắt hoàn toàn không có hàng hóa,
thì cũng không thể nào vượt thoát vòng vây với hỏa lực mạnh gấp nhiều lần trên
biển và trên không. Đó là những chuyến tàu dường như khó có thể trở lại ! Chỉ còn
cách duy nhất là hủy tàu.
Theo
wikipedia, "Action of 1 March
1968", có đoạn như sau :
"At 0230, 1 March, five 81-millimeter mortar rounds from PCF-47 were direct hits and the
trawler exploded with a massive explosion due to the munitions aboard"
Tạm
dịch : "Lúc
2 giờ 30 sáng, ngày 01 tháng 3, năm loạt đạn súng cối 81 mm từ PCF-47(duyên tốc
đĩnh) đã rơi đúng mục tiêu và tàu đánh
cá phát nổ với sự bùng phát to lớn do vũ khí trên tàu"
Sự kiện (5) : bối cảnh lúc hủy tàu
"Kỳ 4 : Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử" :
"Anh chỉ huy cho tàu di
chuyển vào sát bờ. Lúc đó chừng 2 giờ 20 phút, tàu cách bờ hơn 100 mét, anh tổ
chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, sau đó ra lệnh chuẩn
bị điểm hỏa cho nổ tàu."Anh Vinh, Thứ và tôi cài kíp nổ ở khoang
máy, các vị trí khác do Khung, Thật, Mai đảm nhiệm. Kiểm tra xong lần
cuối, chúng tôi nhảy xuống nước bơi vào bờ. Tôi được giao nhiệm vụ
nếu tàu không nổ phải quay lại kiểm tra các kíp nổ"
"Kỳ 4 : Nhớ mãi tên anh" :
"Thuyền trưởng
Vinh cho tất cả anh em bơi vào bờ trước, còn anh và thợ máy Ngô Văn
Thứ ở lại chuẩn bị các loại kíp nổ và trực tiếp điểm hỏa khối thuốc nổ
hủy tàu rồi bình thản nhảy xuống nước
bơi vào bờ...."
"Tàu 235 và trận chiến sinh tử" :
"Ở lại tàu lúc đó, theo trí nhớ của tôi còn Thuyền
trưởng Nguyễn Phan Vinh và các đồng chí: Hàng hải, điều khiển 2 máy trước, điều
khiển hai máy sau, 2 đồng chí pháo thủ súng máy 14,5mm, đồng chí pháo thủ ĐKZ
và tôi."
"… Người đánh
bộc phá khoang máy trước là anh Vũ Long An. Người đánh bộc phá khoang mũi tàu là anh Hà Minh Thật. Thuyền
trưởng Nguyễn Phan Vinh đến từng vị trí kiểm
tra và động viên từng người."
Trong
bối cảnh trước khi hủy tàu, theo "NPV,
bản anh hùng bất tử" viết rằng sau khi tải những người đã hy sinh và bị
thương vào bờ, NPV và một người tên Thứ cùng tác giả tên Long An lo việc gài kíp
nổ ở khoang máy, trong khi ba người khác lo những vị trí còn lại. Sau đó, cả 5
người cùng nhảy xuống nước bơi vào bờ.
Nhưng
theo "Nhớ mãi tên anh", NPV
cho tất cả bơi vào bờ trước, chỉ còn người thợ máy tên Thứ và chính Thuyền trưởng_
không phải là 5 người như đoạn trên đã nói ở lại để chuẩn bị các loại kíp nổ và
trực tiếp điểm hỏa, rồi mới nhảy xuống nước.
Và tác
giả Lê Duy Mai, cũng là thợ điện, kể lại trong "Tàu 235 và trận chiến sinh tử" thì cho rằng người đánh bộc
phá khoang máy trước là Vũ Long An - không phải là NPV và người tên Thứ -, và
người lo khoang mũi tàu là Hà Minh Thật. Thuyền trưởng NPV chỉ kiểm tra và động
viên.
Nếu
cho rằng những ngưởi kể lại trong 3 bài viết có thể nhớ lộn vài chi tiết vì quá
lâu hay tình hình lúc đó quá căng thẳng, nhưng thật ra qua nhiều đoạn trong bài
cho thấy rằng họ nhớ rất tỉ mỉ những sự kiện khác, ngay cả nhận thấy sự "bình
tĩnh" của NPV nhảy xuống nước như
trong "Nhớ mãi tên anh" đã
kể. Những chi tiết khá đơn giản nầy nhưng trái ngược nhau, khiến người đọc càng
thêm bối rối, nhất là khi muốn tìm hiểu thêm tài liệu để viết bài.
Trong
lúc con tàu 235 bị bao phủ bởi những loạt pháo, và tràng đạn bắn xả liên tục của
kẻ địch từ trên không và trên biển, nhưng họ "vẫn có thể bình tĩnh" tổ
chức đưa "5 cán bộ, chiến sĩ trên
tàu đã hy sinh, 2 người bị thương nặng, 7 người bị thương nhẹ" vào bờ
trước, như trong "NPV, bản anh
hùng bất tử" viết; thì quả thật
là một là việc rất anh hùng… "khó tưởng" như trong mấy phim ảnh dàn dựng
cốt chuyện cho thêm phần gai go và hấp dẫn; nhất là trong khoảng thời gian rất
ngắn ngủi, cấp bách, và nguy kịch lúc đó nhưng phải tải tất cả là 14 người xuống
xuồng bơm hơi cao su. (cũng như những sự kiện trên, sẽ được chứng dẫn thêm sau
về sự thật xảy ra như thế nào).
Sự kiện (6) : bối cảnh sau khi lên bờ
"Kỳ 4 : Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử" :
"Mười ngày
phơi dưới nắng, không lương thực, không nước uống, chúng tôi kiệt
sức. Ngày thứ 11, Khung đi tìm nước uống, rồi không trở về.
Sau này mới hay Khung bị địch bắt. Ngày thứ 12, chúng tôi
liên lạc được với du kích ở bến. Mọi người quay lại đón anh Nhi đang nằm trong
rừng"
"Kỳ 4 : Nhớ mãi tên anh" :
"Cuộc chiến đấu trên bộ giữa thuyền trưởng Nguyễn
Phan Vinh cùng thợ máy Ngô Văn Thứ với bộ binh địch diễn ra vô cùng ác liệt. Lợi
dụng địa hình, địa vật, các anh đã tiêu diệt nhiều tên địch. Cuối cùng, do vết
thương ngày càng nặng, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ đã
chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, rồi anh dũng hi sinh..."
"Tàu 235 và trận chiến sinh tử" :
"sau khoảng 7,
8 ngày lẩn tránh các cuộc truy lùng của địch, anh Mai Văn Khung đi tìm
nước cho anh Nhi uống thì bị địch phát hiện. Chúng tôi nổ súng quyết chiến với
quân địch. Anh Nhi hy sinh tại chỗ
còn anh Khung sau đó bị thương.
Gần đây tôi được biết, anh Khung bị địch bắt rồi đày đi Phú Quốc"
Theo
"NPV, bản hùng ca bất tử",
số còn lại sau khi rút lên bờ là 9 người -5 người đã hy sinh, 2 người bị thương
nặng, và 7 người bị thương nhẹ, còn lại 6 người không thương tích lo việc gài kíp
nổ. Như vậy, có tất cả là 11 người đã hy sinh trong tổng số ban đầu là 20 người
- có thể là 5 người trước đó, thêm 2 người bị thương nặng, và 4 người bị thương
nhẹ. Số còn lại là 6 người không thương tích và 3 người bị thương, phải chiến đấu
quyết liệt với kẻ địch đang kéo đến trên bờ. Thuyền trưởng NPV và người tên Thứ
đã phải chịu hy sinh để chận đứng nhiều cuộc tấn công. Chỉ còn lại 7 người phải
lẩn trốn và chịu đựng 10 ngày phơi nắng, không lương thực, nước uống, ngay cả
thuốc men, băng bó. Đến ngày thứ 11, người tên Khung đi tìm nước và rồi không về;
sau nầy mới biết là bị địch bắt. Cuối cùng, 7 người cũng được trở về miền Bắc hơn
6 tháng vượt Trường Sơn, sau khi bắt liên lạc với du kích và tịnh dưỡng một thời
gian.
Trong
"Mãi nhớ tên anh" thì không…
nói đến việc vượt Trường sơn trở lại miền Bắc, cũng như thời gian lẩn tránh,
hay chuyện về người tên Khung.
Nhưng
theo "Tàu 235 và trận chiến sinh tử"
cho rằng số 7 người còn lại phải lẩn tránh trong 7,8 ngày - không phải là 10 ngày
như được nói ở trên. Và cuộc chiến trên bờ chỉ xảy ra sau khi Khung đi tìm nước
bị địch phát hiện. Sau đó Khung bị thương - có thể bị bỏ lại, nên tác giả không
biết Khung đã hy sinh hay bị bắt - đến mãi sau nầy mới được tin : "Khung bị địch bắt rồi đày đi Phú Quốc"
.
Sức
con người luôn có hạn, dù có thể nhịn ăn nhưng không thể không uống nước trong
10 ngày liên tục như trong "NPV, bản
hùng ca bất tử" đã kể. Và 3 người bị thương, không có thuốc men để băng
bó, trong vùng bùn lầy mà vẫn có thể chịu đựng được; thì điều nầy lại phải đặt
thêm nghi vấn. Vì với một vết thương bằng súng đạn như vậy, trong vòng 3 ngày đã
hóa mủ và bắt đầu ung thúi. Ngoài ra không được ăn uống trong nhiều ngày - cơ
thể dần mất khả năng chịu đựng, tự bảo vệ, và hàn gắn vết thương - thì khó bảo
toàn phần cơ thể còn lại. Và giả như được may mắn sống sót, phần cơ thể đó chắc
chắn phải bị cắt bỏ; nhưng trong tình hình bấy giờ, không có thuốc men thì dễ gì
làm phẫu thuật dù với dụng cụ thô sơ.
Riêng
về câu chuyện người tên Khung lại mâu thuẫn nhau, cũng như sự kiện xảy ra trận
chiến trên bờ hoàn toàn khác biệt về giai đoạn thời gian : trước hay sau khi
Khung bị phát hiện? Nhưng trong "NPV,
bản hùng ca bất tử" mô tả lại
trận chiến rất chi tiết như khẳng định rằng sự việc đó là thật và đã xảy ra trước
khi Khung bị bắt.
Một
trận chiến không kém phần náo động, với : "…
máy bay đến bắn phá ven
biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ tàu 235"
và "Địch lập tức đổ quân lùng sục. Thuyền trưởng Vinh và thợ máy Thứ
chốt ở đó, kiên cường chống trả, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch,…",
thì khó có thể làm người ta dễ dàng quên đi vài chi tiết, bao gồm sự việc về
người tên Khung.
Sự kiện (7) : bản tin không chứng cứ
"Kỳ 4 : Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử" :
"Về
sự kiện này, tạp chí “Lướt sóng” của Hải quân quân đội Sài Gòn viết: “Mười
hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực
Việt Nam cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một
tiểu đoàn Việt Cộng (thực chất chỉ có 20 thủy thủ) gan góc và thiện chiến
trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập và tiếp tế cho mặt trận giải
phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với
con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một
dấu vết”..."
Đây lại một là bản tin không
chứng cứ hay chỉ nói qua loa về nguồn dẫn, nhưng nó cũng dễ khiến người đọc tin
là thật vì đa số đọc giả không hiểu biết rõ ràng về những danh từ dùng trong quân
đội như tiểu đoàn, chiến hạm, phi cơ, nếu không có những hình ảnh cụ thể, hay
vài lời chú thích. Họ khó có thể hình dung 1 tiểu đoàn như thế nào, ngoại trừ
cho họ một khái niệm về con số, hay một chiến hạm to lớn được trang bị ra sao,
nếu chưa từng được nhìn thấy qua hình ảnh, hay khoảng tróng trong khoang của một
con tàu vận chuyển hẹp rộng như thế nào, cùng với 14 tấn vũ khí, và khả năng hủy
hoại của một chiếc phi cơ chiến đấu đến mức nào, so với máy bay tuần thám.
Để chú giải phần nào,
theo wikipedia cho biết, một tiểu đoàn có khoảng 300 đến 500 người. Nhưng cũng
có thể lên đến 800 người, tùy tình hình và hoàn cảnh của mỗi quốc gia qua cách
phân chia trong quân đội của họ. Đơn giản hoá, người ta có thể dùng con số 400
cho một tiểu đoàn.
Theo tài liệu "Lực Lượng Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa" trên http://hqvnch.net/default.asp?id=502&lstid=62, hải quân của VNCH có tất cả là 20 tuần duyên hạm trong khoảng 1963--1967, và 7 tuần dương hạm trong khoảng 1971--1972. Vì vậy, theo bản tin, có thể xem như chỉ có tuần duyên hạm tham gia, lúc đó. Và phải vận động gần như toàn bộ lực lượng hải quân để vây đánh… một tàu sắt vận chuyển hàng hóa với 20 thủy thủ (?). Và một chiếc quân vận đĩnh chỉ có thể chứa khoảng 100 người; như vậy cần đến 4 chiếc cho một tiểu đoàn khoảng 400 người. Nhưng theo bản tin viết, con tàu sắt đánh cá chuyên chở cả "một tiểu đoàn Việt Cộng" (?)
Theo tài liệu "Lực Lượng Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa" trên http://hqvnch.net/default.asp?id=502&lstid=62, hải quân của VNCH có tất cả là 20 tuần duyên hạm trong khoảng 1963--1967, và 7 tuần dương hạm trong khoảng 1971--1972. Vì vậy, theo bản tin, có thể xem như chỉ có tuần duyên hạm tham gia, lúc đó. Và phải vận động gần như toàn bộ lực lượng hải quân để vây đánh… một tàu sắt vận chuyển hàng hóa với 20 thủy thủ (?). Và một chiếc quân vận đĩnh chỉ có thể chứa khoảng 100 người; như vậy cần đến 4 chiếc cho một tiểu đoàn khoảng 400 người. Nhưng theo bản tin viết, con tàu sắt đánh cá chuyên chở cả "một tiểu đoàn Việt Cộng" (?)
Với một con tàu vận chuyển đầy hàng như hình ảnh ở trên, khó có thể nào
dồn thêm cả 400 người trong khoang. Và cứ giả như là vậy, lực lượng chiến đấu của
1 tiểu đoàn chỉ bám vào một con tàu sắt đơn sơ, chậm chạp như thế, chỉ là cách
tự sát tập thể. Theo như bản tin, ngoài 12 chiến hạm, và hàng chục hải thuyền,
còn có thêm phi cơ - không phải là loại thám thính - thì đó là một trận thư hùng
kinh hoàng không kém.
Thật ra, với khả năng của 1 chiếc phi cơ, cũng đủ đánh chìm con tàu sắt
cùng 1 tiểu đoàn của nó trong chớp nhoáng, vì tàu sắt vận hàng, dĩ nhiên không
được trang bị hỏa lực như một tàu chiến và sự chính xác của lằn đạn từ người trên
tàu cầm súng bắn lên phi cơ thì rất mong manh . Vã lại, không một vị chỉ huy nào
nghĩ rằng họ sẽ vận dụng một lực lượng to lớn đến vậy để chỉ đối phó với một
con tàu sắt vận hàng vì trong trách nhiệm và bổn phận của người thừa hành có cấp
bậc, bao gồm cả việc chi tiêu về chiến phí để tiết kiệm quân nhu và phí tổn không
cần thiết, và sự điều quân thích hợp để tránh sự hao hục lực lượng.
Nếu một bản tin như vậy đăng trên tạp chí "Lướt sóng" của quân
đội VNCH, thì chỉ có trong mục truyện vui cười, vì không một quân nhân nào
trong quân đội VNCH nói chung, và hải quân nói riêng, thiếu kiến thức để nhận
thấy sự lố bịch trong ngụy tạo như vậy. Đó là chưa nói, trong binh chủng hải quân,
hay những binh chủng khác, phóng viên quân đội được đào tạo bằng trường lớp
chuyên nghiệp, sau khi đỗ đạt qua hai kỳ thi tú tài toàn phần với số điểm bình
(hạng thứ, hạng bình, hạng ưu). Từ đó, người ta có hiểu được một khía cạnh nhỏ
như thế nào về điều kiện để trở thành một sĩ quan hải quân, hay trong binh chủng
khác.
Tóm lại, chỉ cần đọc sơ qua bản tin trên, một người lính VNCH không cấp
bậc, cũng hiểu rằng đó là một bài viết thiếu hiểu biết cơ bản về quân đội và
chiến trận. Vậy tác giả nào dám nghĩ đến chuyện đăng lên một tạp chí hải quân
như vậy mà không cảm thấy sự mê muội lố bịch của mình phơi bày sao ? Họa chăng,
với bản tin như thế có thể dẫn dụ sự tin tưởng của những người dân đen cần cù mưa
nắng, ví thiếu thời gian, điều kiện tự tìm hiểu thêm, ngoài trừ chỉ được đọc những
bài báo tuyên truyền lá cải như tình trạng ở Việt Nam hôm nay. Cái đau của dân
tộc cũng chính là sự thiếu hiểu biết trong dân chúng, khi nhà cầm quyền cố tình
tạo một nền giáo dục u mê, ngụy tạo ngay cả trong lịch sử xa xưa, để có được những
người "trung thành tuyệt đối với đảng" như trong "Đề Cương" nói về nhiệm vụ thứ 3 trong tình hình mới hôm
nay (2011). Cũng có nghĩa là: "người dân không được quyền đặt bất kỳ nghi
vấn gì với đảng", dù chỉ bắt đầu men nhóm trong tư tưởng mà đó là một đặc ân
về trí não, của Thượng Đế ban cho con người.
______________________________
Ps. Xin xem tiếp phần 3 (cuối cùng)
Đã đăng: Phần 1
Tôi không cầu danh lợi
Cũng không cần vinh hoa
Chỉ cầu xin dân Việt
Cứu non nước, quê nhà !