Nguyễn Hưng Quốc - Giới lãnh đạo Việt Nam bao giờ cũng cho những chức vụ mình đang nắm giữ như những sứ mệnh vĩ đại từ trên trời rơi xuống. Một thứ thiên mệnh. Ngay cả khi họ giả vờ nói khiêm và nói nịnh họ là “đầy tớ” của dân chúng thì người ta, tự trong vô thức, vẫn xem cái chức “đầy tớ” ấy là một thiên mệnh. Là thiên mệnh vì, thật ra, không có ai thực sự bầu cho họ cả (hiểu bầu theo nghĩa tổng tuyển cử chứ không phải bầu bán trong nội bộ đảng với nhau). Là thiên mệnh vì họ không thực sự chịu trách nhiệm trước ai cả. Đất nước lạc hậu, dân chúng nghèo khổ ư? Đó là trách nhiệm của “thằng” lịch sử hay “thằng” khách quan nào đó. Đất nước phát triển ư? Thì đó là công của họ, bất kể mồ hôi và nước mắt của mấy chục triệu người lao động quần quật trong cả nước...
*
Quyền và bổn phận
Xã hội nào cũng được xây dựng trên hai trụ cột chính: quyền và bổn phận. Tuy nhiên, sự phân phối giữa hai yếu tố này hầu như chưa bao giờ thực sự quân bình và hợp lý. Lúc nào chúng cũng ở trạng thái tranh chấp. Chính những sự tranh chấp ấy đã vẽ nên tấm bản đồ và cũng là lịch sử của các nền chính trị trên thế giới.
Nói một cách tóm tắt, đặc điểm nổi bật nhất của các chế độ chuyên chế là giành phần quyền về phía giới thống trị và đổ hết phần bổn phận xuống cho những người bị trị. Ví dụ, ngày xưa, vua chúa, nhất là vua, hầu như nắm trong tay mọi thứ quyền. Quyền được coi tài sản của cả nước là tài sản của mình. Quyền được hưởng thụ, kể cả hưởng thụ một cách trụy lạc, bất chấp mọi nguyên tắc luân lý được chính họ truyền dạy. Quyền được ra lệnh, dù là những mệnh lệnh cực kỳ ngu dốt. Quyền sinh sát đối với mọi người. Không ai dám đòi hỏi bổn phận gì từ vua cả. Bổn phận được xem là chuyện của dân chúng. Bổn phận phải đóng thuế, phải phục dịch và phải vâng lời. Vâng lời trong mọi trường hợp, kể cả lúc nhà vua, trong một cơn say rượu nào đó, ra lệnh mình…tự thắt cổ chết: “Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung”.
Chế độ dân chủ, ngược lại, nhấn mạnh vào quyền. Không phải quyền của những người cai trị mà là của những người bị trị. Không phải ngẫu nhiên mà các chế độ dân chủ đầu tiên trên thế giới hầu như ra đời cùng lúc với các bản tuyên ngôn về nhân quyền, trong đó, những quyền được xem là căn bản nhất là: quyền sống một cách tự do và bình đẳng. Những quyền căn bản này cũng là những quyền tối thượng: chúng thuộc về con người trước khi là công dân, do đó, chúng có tính chất phổ quát và bất khả xâm phạm. Chúng được áp dụng cho mọi người bất kể màu da, tôn giáo, đẳng cấp và phái tính. Chúng trở thành nền tảng của mọi thứ quyền khác và cũng là nền tảng để xây dựng một chế độ thực sự dân chủ. Càng ngày các thứ quyền ấy càng được cụ thể hóa và thiết chế hóa, bao gồm nhiều lãnh vực khác nhau, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa và xã hội. Nhìn vào các thứ quyền ấy, điều nổi bật và dễ thấy nhất là phần lớn chúng đều gắn liền với ý niệm tự do: tự do phát biểu, tự do tụ tập, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do ứng cử, tự do làm ăn buôn bán, v.v…
Dĩ nhiên, quyền đi liền với bổn phận. Các bổn phận thường được nhắc nhở nhất là bổn phận đối với đất nước, với xã hội, với gia đình, bao gồm cả bổn phận nuôi dạy con cái ở tuổi vị thành niên (độ tuổi thay đổi theo từng nước). Bao trùm lên tất cả là bổn phận tuân thủ luật pháp: Có thu nhập thì phải đóng thuế; đi ra đường (kể cả đi bộ!) thì phải giữ đúng luật đi đường; đến ngã tư, thấy đèn đỏ thì phải dừng xe lại cho dù có cảnh sát hay không, v.v…
Điều cần chú ý là, ở Tây phương, hai khái niệm quyền và bổn phận thường có quan hệ mật thiết với nhau. Không có quyền nào lại không gắn liền với một bổn phận nhất định. Ví dụ: quyền tự do tụ tập. Ở Tây phương, ai cũng có thể rủ bà con, anh em, bạn bè về nhà mình ăn nhậu, hát hò thoải mái thâu đêm suốt sáng. Chẳng cần phải xin phép công an khu vực như ở Việt Nam ngày trước. Tuy nhiên, ở đây, người ta phải có bổn phận với người khác: sau 10 giờ tối thì mọi âm thanh đều phải điều chỉnh lại cho… vừa đủ nghe để không làm phiền đến giấc ngủ của hàng xóm. Ồn quá, người ta có thể gọi cảnh sát. Ngay cả việc biểu tình cũng vậy. Muốn chống ai thì cứ việc xuống đường biểu tình. Tự do. Nhưng mọi người lại có bổn phận không gây trở ngại cho việc giao thông của người khác. Để hòa giải giữa hai thứ quyền này (quyền biểu tình và quyền giao thông), cảnh sát thường đòi hỏi những người tổ chức biểu tình phải đăng ký trước là vì thế. Để họ có thể tái phối trí các hướng giao thông hầu bảo đảm trật tự và an ninh cho mọi người. Vậy thôi.
Nói đến bổn phận mà không nói đến quyền là độc tài. Nói đến quyền mà không nói đến bổn phận là ích kỷ về phương diện đạo đức, vô chính phủ về phương diện chính trị, và thật ra, vô nghĩa cả về phương diện luận lý lẫn phương diện thực tiễn.
Một xã hội lành mạnh là xã hội kết hợp cả quyền lẫn bổn phận. Giữa xã hội này và xã hội khác chỉ khác nhau ở sự cân đối. Có một số xã hội nhấn mạnh vào khía cạnh bổn phận (duty-centred society) và có một số xã hội nhấn mạnh vào quyền (right-centred society). Phần lớn các quốc gia phát triển nhất ở Tây phương hiện nay, đứng đầu là Mỹ, đều là những xã hội nhấn mạnh vào quyền. Không phải ai cũng hài lòng về điều đó. Người ta nhận thấy việc quá nhấn mạnh vào quyền cũng gây khá nhiều vấn đề: ở đâu cũng có kiện cáo và ý thức trách nhiện với cộng đồng bị sút giảm nghiêm trọng.
Đó là những chuyện trên lý thuyết và đặc biệt ở Tây phương. Còn ở Việt Nam thì sao?
Thì quyền vẫn là chuyện của giới lãnh đạo.
Và bổn phận vẫn là chuyện của quần chúng.
So với thời vua chúa ngày xưa, trên rất nhiều phương diện, quan hệ giữa quyền và bổn phận cũng chẳng có thay đổi bao nhiêu. Trừ trên giấy tờ.
*
Lãnh đạo: nghề làm thuê
Trong bài diễn văn của Tổng thống Barack Obama tại Quốc Hội Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 9 vừa rồi, có một hai câu nói tôi rất thích. Ông nhắc đến dân chúng như “những người đã cử chúng ta đến đây; những người đã thuê chúng ta làm việc cho họ” (the people who sent us here – the people who hired us to work for them). Rồi ông tự hỏi và hỏi các nghị sĩ và dân biểu: Mỹ “Dân chúng ở đất nước này làm việc vất vả để hoàn tất trách nhiệm của họ. Câu hỏi tối nay là: liệu chúng ta có hoàn tất trách nhiệm của chúng ta hay không?” (The people of this country work hard to meet their responsibilities. The question tonight is whether we’ll meet ours.)
Thực tình, tôi không quan tâm mấy đến các chính sách Obama đã đưa ra nhằm giải quyết tình trạng thất nghiệp trầm trọng cũng như cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài tại Mỹ. Đã đành kinh tế Mỹ có quan hệ mật thiết đến kinh tế toàn cầu, trong đó có Úc; tuy nhiên, từ Úc, nhìn sang Mỹ, thấy chuyện của họ xa vời quá. Tôi nghe bài diễn văn của Obama một cách khá ơ hờ. Nhưng đến mấy câu nói trích ở trên, tôi bỗng thấy thích hẳn.
Thích chủ yếu vì thấy chúng khác hẳn với những gì chúng ta thường nghe ở Việt Nam. Có lẽ ở Việt Nam chưa có lãnh tụ nào đặt vấn đề trách nhiệm với dân chúng một cách cụ thể đến như vậy. Càng chưa có ai nhìn nhận một thực tế: Họ là những người làm thuê của dân chúng. Mà không phải là những người làm thuê vĩnh viễn. Họ chỉ là những người làm thuê theo hợp đồng. Cứ bốn năm, dân chúng lại xét lại hợp đồng ấy một lần. Làm giỏi, người ta thuê tiếp. Làm kém thì xin vui lòng về… hưu.
Giới lãnh đạo Việt Nam bao giờ cũng cho những chức vụ mình đang nắm giữ như những sứ mệnh vĩ đại từ trên trời rơi xuống. Một thứ thiên mệnh. Ngay cả khi họ giả vờ nói khiêm và nói nịnh họ là “đầy tớ” của dân chúng thì người ta, tự trong vô thức, vẫn xem cái chức “đầy tớ” ấy là một thiên mệnh. Là thiên mệnh vì, thật ra, không có ai thực sự bầu cho họ cả (hiểu bầu theo nghĩa tổng tuyển cử chứ không phải bầu bán trong nội bộ đảng với nhau). Là thiên mệnh vì họ không thực sự chịu trách nhiệm trước ai cả. Đất nước lạc hậu, dân chúng nghèo khổ ư? Đó là trách nhiệm của “thằng” lịch sử hay “thằng” khách quan nào đó. Đất nước phát triển ư? Thì đó là công của họ, bất kể mồ hôi và nước mắt của mấy chục triệu người lao động quần quật trong cả nước.
Quan niệm chức vụ lãnh đạo như là thiên mệnh nên các “đầy tớ” bất cần các ông bà “chủ” có đồng ý cho họ làm việc tiếp hay không. Và cũng không cần nhớ, thậm chí, biết tất cả bổng lộc của họ là đến từ dân chúng.
Không biết như thế nên thay vì “biết ơn” những người đã hùng hục làm việc và đóng thuế để nuôi mình, người ta lại làm một chuyện oái oăm: bắt dân chúng phải biết ơn và nhớ ơn mình!
Có lẽ một trong những chiến lược tuyên truyền lớn nhất của chính quyền Việt Nam, từ khi lên nắm quyền vào năm 1945 đến nay, là nhấn mạnh vào chuyện ơn nghĩa. Hầu như toàn bộ guồng máy tuyên truyền đều tập trung vào vấn đề công ơn của đảng và của lãnh tụ. Người ta tổ chức các đợt sáng tác rầm rộ để giới cầm bút kể lể công ơn “tái sinh” của cách mạng. Ăn một bát cơm ngon cũng nhớ ơn cách mạng. Mặc bộ quần áo mới cũng nhớ ơn cách mạng.
Thời kháng chiến, trong bài “Thơ dâng Bác Hồ” sáng tác ngày 19.5.1953, Xuân Diệu viết:
Chúng con dưới vực sai lầm
Đang vươn mình được Bác cầm tay lên.
Cũng ngày 19.5.1953, Nguyễn Bính từ Nam bộ, làm bài Thư gửi về Cha:
Trước con cơ cực nhọc nhằn
Nhờ Cha nay mới nên thân nên người..
Sau năm 1954, ở miền Bắc, Xuân Diệu lại viết:
Hãy cảm ơn đảng Cộng sản, lòng ta ơi!
Hãy cảm ơn những người dựng con người,
Hãy cảm ơn Hồ Chí Minh đồng chí
Đã rèn luyện một nửa già thế kỷ
…
Xưa lệ sa, ta oán hận đất trời
Nay lệ hoà, ta lại thấy đời tươi!
Chế Lan Viên cũng có rất nhiều những bài thơ tương tự như thế. Lại Nguyên Ân có lần nhận xét về thơ Chế Lan Viên: “Thơ Chế Lan Viên có cả một loạt những bài thơ ăn năn sám hối cho sự lỡ lầm thuở trước, bày tỏ lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ với chế độ mới, lý tưởng mới – cái lý tưởng mà nhà thơ có lúc như muốn quỳ xuống bái lạy cho tỏ sự biết ơn của một tín đồ đã bỏ “đạo” cũ để từ đây theo nó đến cuối đời.” (Một thời đại văn học mới, Hà Nội, 1987, tr. 106).
Sau này, hầu như không có nhà văn hay nhà thơ nào đủ vô liêm sỉ để nịnh bợ như vậy nữa. Và nhà cầm quyền cũng không đủ vô liêm sỉ để lớn tiếng tuyên truyền như vậy nữa. Nhưng đây đó, dưới những hình thức diễn tả khác nhau, chúng ta vẫn nghe thấp thoáng những giọng kể công và đòi hỏi sự biết ơn của dân chúng đối với những người đã suốt đời hy sinh gánh chịu…bổng lộc đến hầu như vô tận!
Đương quyền, người ta muốn dân chúng biết ơn. Về hưu, người ta cũng muốn dân chúng biết ơn. Với từng cá nhân, người ta đòi hỏi sự biết ơn. Với cả đảng và chế độ, người ta cũng đòi sự biết ơn.
Người ta cố tình ngoảnh lưng lại sự thật này: Làm lãnh đạo, thực ra, là làm thuê. Lương bổng của họ là do dân chúng trả. Tất cả tiện nghi và quyền lợi mà họ có là do dân chúng cung cấp. Ở đây không có chuyện ân nghĩa. Mà chỉ có vấn đề là: làm việc có hiệu quả hay không.
Làm được việc: Xin tiếp tục.
Làm không được việc: Xin mời xuống!