Nguyễn Trang Nhung - Lịch sử loài người đã trải qua hàng ngàn năm, khi con người sinh ra từ thuở sơ khai hoang dã, sau nhiều bước chuyển về thể chất lẫn tinh thần, đã bước dần từ nơi u tối đến ánh sáng văn minh.
Lịch sử loài người đã trải qua hàng ngàn năm, với những cuộc đấu tranh để sinh tồn, hay những cuộc đấu tranh khởi nguồn từ sự khác biệt về sắc tộc hay tôn giáo...
Lịch sử loài người cũng đã trải qua hàng ngàn năm, để đúc kết ra được những chân lý, hay những giá trị phổ quát hiện hữu như những chân giá trị mà nhờ đó, loài người đã tiến bộ như ngày hôm nay.
Trong những bước đường đưa nhân loại tới nền văn minh hiện tại, một trong những cột mốc quan trọng là phong trào khai sáng bắt nguồn từ Âu châu, mà khởi đầu tại Anh quốc vào cuối thế kỷ 17, và tiếp sau tại Pháp, Mỹ và Nhật Bản vào các thế kỷ 18, 19.
Phương châm của khai sáng
“Cao trào khai sáng (enlightenment) ở Âu châu tuy đã bắt đầu từ cuối thế kỷ 17, nhưng phải chừng một thế kỷ sau, khi tác phẩm “Trả lời câu hỏi: Khai sáng là gì?” (1784) của Immanuel Kant ra đời, danh từ này mới trở thành một thuật ngữ có chỗ đứng hẳn hoi trong ngôn ngữ triết học và lịch sử tư tưởng.” (1)
“Khai sáng”, theo định nghĩa của Kant, “là sự thoát ra của con người khỏi tình trạng chưa trưởng thành (nonage) do chính con người tự gây nên. Chưa trưởng thành vì không có khả năng sử dụng lý trí của mình mà không cần đến sự dẫn dắt của kẻ khác. Sự chưa trưởng thành này, nếu chính nguyên nhân không nằm ở sự thiếu lý trí mà ở sự thiếu quyết định và thiếu can đảm trong việc tự sử dụng lý tính của chính mình mà không cần sự dẫn dắt của kẻ khác, thì chính là lỗi do chính mình gây nên. Bởi vậy, ‘Hãy dám biết và hãy can đảm sử dụng lý trí của chính mình' là phương châm của khai sáng”. (2)
Tuy đã diễn ra từ cách nay ba thế kỷ, nhưng phong trào khai sáng với những luận điểm của nó về căn bản vẫn còn giá trị cho đến hiện tại. Và ở những nơi nào đó trên thế giới, nó “vẫn tiếp tục lan tỏa nhằm đánh đổ thần quyền và chủ nghĩa phong kiến mông muội”... (3) Ba trong số tám luận điểm chính của khai sáng là những luận điểm cơ bản, được chân nhận, mà hầu như không cần phải bàn cãi:
1. “Lý trí chính là khả năng trung tâm của con người, nó không những giúp cho con người có khả năng suy nghĩ sáng suốt mà còn cả hành động một cách đúng đắn.”
2. “Niềm tin phải được đón nhận bằng lý trí, không dựa trên quyền uy và chức sắc, tôn giáo, kinh nghiệm hay truyền thống.”
3. “Tất cả mọi người đều có quyền bất khả xâm phạm, tuyệt đối cá nhân, hoàn toàn bình đẳng xét về khía cạnh lý lẽ (so với các cá nhân khác hay nhà nước) và do đó phải được tạo cho sự bình đẳng trước luật pháp và quyền tự do cá nhân.” (4)
Phong trào khai sáng tại Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia Á Đông có một chính thể dân chủ từ khá sớm so với các nước Á Đông khác, và mau chóng đạt được sự giàu mạnh, một phần lớn là nhờ tư tưởng khai sáng có từ thời Minh Trị Duy tân, thời kỳ diễn ra những biến đổi lớn trong xã hội Nhật Bản, có vai trò như bước ngoặt cho sự biến chuyển đầy ngoạn mục.
Thời Minh Trị Duy tân bắt đầu từ năm 1868. Trước đó, Nhật Bản vẫn là một quốc gia phong kiến với nền nông nghiệp lạc hậu. Trong bối cảnh bị dồn ép phải mở cửa bởi các quốc gia Tây phương, thay vì bế quan tỏa cảng, Nhật Bản đã chọn con đường cải cách để bắt kịp với các quốc gia tiên tiến. Điều này đã khiến Nhật Bản tránh được nguy cơ trở thành một nước thuộc địa như nhiều quốc gia phong kiến khác.
Chính phủ thời Minh Trị Duy tân lúc đó đã đưa ra các khẩu hiệu “Phú quốc cường binh” “Quyết theo kịp phương Tây”, đã góp phần khiến người Nhật trở nên tích cực và nhiệt tâm với “văn minh khai hóa”. Và, với cách thức thâu dụng người tài, chính phủ Minh Trị đã tạo điều kiện thuận lợi cho những tinh hoa của đất nước được khai mở những nguồn sáng của văn minh.
Những học giả trong trào khai sáng tại Nhật Bản đã được tạo cơ hội đến các quốc gia Tây phương để học hỏi các kiến thức về kinh tế, thống kê, luật pháp, chính trị học, khoa học – kỹ thuật,... để sau đó, Nhật Bản tiến hành nhiều cuộc cải cách quan trọng trong nhiều lĩnh vực, khiến nước Nhật mau chóng trở thành một quốc gia hùng mạnh!
Phong trào Duy tân có sự đóng góp lớn của những trí thức trong chính quyền cũ (chính quyền Tokugawa trước thời Minh Trị) và hội trí thức Merokusha (Minh lục xã) – một hội trí thức với các tên tuổi lẫy lừng như Nishimura Shigeki, Nishi Amane, Fuzukawa Yukichi (5), đã góp phần to lớn vào sự chuyển biến tư tưởng của người dân Nhật Bản trong thời kỳ khai sáng.
Điểm qua một số thành quả mà Minh lục xã đã gây dựng là hàng loạt các tác phẩm, các cuốn tự truyện, các bài xã luận về hầu mọi chủ đề như kinh tế, chính trị, pháp luật, triết học, khoa học, tôn giáo, v.v... cùng với Minh lục tạp chí được sáng lập bởi Minh lục xã, đã tạo nên sự mới mẻ và sôi động cho các luận đàn tri thức ở Nhật Bản thời đó.
Các tác phẩm điển hình cần kể đến: như cuốn “Khuyến học” của Fukuzawa (6), ngay lần in đầu tiên đã có số lượng ấn bản kỷ lục là 3,4 triệu; tác phẩm dịch thuật “Bàn về tự do” của John Stuart Mill (7), được xuất bản lần đầu ở Anh năm 1859, đến năm 1868, đã được dịch ở Nhật Bản với 2 triệu bản phát hành, trong khi dân số Nhật Bản lúc đó khoảng 35 triệu người. Nhìn vào các con số ấy, có thể thấy tầm ảnh hưởng của các tác phẩm đó đối với người dân Nhật Bản thật rộng lớn!
Coi trọng vai trò của dịch thuật là một điểm quan trọng của văn minh khai sáng. Nhiều tác phẩm dịch thuật ra đời lúc đó (“Bàn về tự do” là một ví dụ kể trên) đã góp phần không nhỏ giúp nâng cao tầm thức của người Nhật, và có vai trò to lớn trong việc đem lại những thành quả rực rỡ của Duy tân. Cuộc cách mạng Duy tân, sau chừng 30 năm, đã góp phần khiến Nhật Bản trỗi dậy ngang hàng với các quốc gia Âu, Mỹ!
Trong số luận điểm của các học giả, có thể thấy nổi bật lên những tư tưởng tiến bộ của Nishi, khi đề nghị dùng mẫu tự La Tinh để biểu thị tiếng Nhật, của Tsuda khi chủ trương phải có tự do xuất bản, của Fukuzawa khi cho rằng chính phủ phải chia sẻ “quốc quyền” với dân chúng, hay như ý tưởng thành lập “dân tuyển nghị viện”, tức quốc hội ngày nay, của Itagaki. Nhiều luận điểm khi ấy đã được tranh luận sôi nổi trên Minh lục tạp chí.
Tuy các thành viên của Minh lục xã có nhiều ý kiến khác nhau về các vấn đề quan trọng được bàn thảo, song, “chính sự khác biệt cùng những cuộc thảo luận thẳng thắn trên Minh lục tạp chí đã đóng góp cho nguyên tắc tương đối trong việc hình thành tính đa dạng của tư duy.” (8) Ví dụ như: “Cuộc bàn cãi về vai trò của người trí thức đối với chính quyền giữa Fukuzawa, một học giả ở ngoài chính phủ, và Katô, đại diện cho những trí thức phục vụ trong chính quyền, đã đưa đến hai trào lưu học thuật ở nước Nhật cận và hiện đại. Với tư cách là người sáng lập trường Khánh Ứng Nghĩa thục (Keiô Gijuku), Fukuzawa được xem là người mở đầu cho truyền thống học thuật và trường ốc độc lập với chính phủ (shigaku, tư-học), tức private academy. Ngược lại, Katô, sau đó trở thành hiệu trưởng đầu tiên của trường Đại học Đông kinh (1877), là cha đẻ của truyền thống học thuật và trường ốc do nhà nước thiết lập và nâng đỡ (kangaku, quan-học), tức official academy. Những thành quả này có thể xem là một đóng góp quan trọng của hội Meirokusha, bởi lẽ trước đó vì không có truyền thống tự do thảo luận nên người ta thường chụp mũ, đơn giản dán nhãn hiệu tà thuyết (kyotan bôsetsu, hư-đản vọng-thuyết) cho những ý kiến đối lập.” (9)
Phong trào khai sáng đã để lại những di sản vô giá của những trí tuệ biết bắt kịp thời đại, để Nhật Bản ngày nay được thừa hưởng và tiếp tục phát huy tinh thần của những trí tuệ ấy. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu với những thành trì cũ mòn trong tư duy, nhờ được dẫn dắt bởi những người mang sứ mạng khai sáng, quốc gia châu Á này đã vươn lên mạnh mẽ để sánh ngang tầm với các nước Tây phương!
Phong trào khai sáng tại Việt Nam
Ngọn gió khai sáng từ Nhật Bản thổi qua Trung Hoa, khiến cho các nhà cách mạng tân tiến tại nước này tạo nên một loạt các tác phẩm triết học trong bộ Tân thư, với những phản ánh về hiện thực đất nước và những phương án giải quyết các vấn nạn để đưa Trung Hoa đến con đường cải cách. Tiếp thu tinh thần khai sáng qua các Tân thư cùng các trước tác của Montesquieu, Rousseau, Voltaire,... Phan Châu Trinh đã nhìn thấy được những nhược điểm cơ bản về văn hoá xã hội của Việt Nam so với phương Tây, những lạc hậu và hủ hóa trong bộ máy cầm quyền phong kiến đã bám rễ từ lâu, là nguyên nhân khiến đất nước phải chịu thân phận thuộc địa. Nhận thức được điều đó, ông đã có sự chuyển biến về tư tưởng có ý nghĩa cách mạng trong công cuộc tìm đường cứu nước.
Từ đó, Phan Châu Trinh sáng lập phong trào Duy tân với ba điểm chính: “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, trong đó, “dân trí” đóng vai trò quan trọng như chìa khóa để mở ra một thời đại mới, với những con người có tri thức mới, để từ đó, đất nước có khả năng giành được độc lập và trở nên cường thịnh.
“Tri thức mới” trong quan niệm của ông, “đó là hiểu biết về dân quyền (ngày nay ta gọi là dân chủ), người dân biết rằng mình có quyền, biết rõ các quyền của mình trong xã hội, trong cuộc sống, trên đất nước, trước thế giới. Theo cách nói ngày nay, có thể ông cho rằng điều cơ bản để tạo nên sức mạnh lay trời chuyển đất là dân chủ về thông tin (“dân biết”), trao thông tin về những quyền của nhân dân cho chính nhân dân.” (10)
“Thậm chí ông còn cho rằng nếu có thoát khỏi tay ngoại bang, giành được độc lập, mà không có dân quyền, không có dân chủ, dân trí thấp, người dân không giác ngộ về quyền dân chủ của mình và sử dụng có hiệu quả quyền đó để làm chủ đất nước, xã hội, thì cũng là vô nghĩa, nhân dân không thể có hạnh phúc, đất nước không thể phát triển, và như vậy nền độc lập dân tộc cũng không thể vững chắc” (11)
Trong phong trào Duy tân, Phan Châu Trinh cùng Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng đã lập nên một “bộ ba Quảng Nam”, đi đến nhiều miền đất nước, mở nhiều trường dạy học những tri thức mới. Vào năm 1908, hai năm sau khi được phát động, phong trào Duy tân đã lan rộng khắp cả nước, tạo nên sự kiện “Trung Kỳ dân biến”, mà sau đó, tiếc thay, đã bị thực dân Pháp và tay sai dập tắt.
Phong trào Duy tân, theo nhà văn Nguyên Ngọc “chủ yếu nhằm vào một cuộc cải cách giáo dục sâu rộng, với tư tưởng cơ bản là thực học, đối với chúng ta ngày nay dường như bỗng trở nên thời sự một cách lạ thường” (12). Quả là vậy, khi thành quả của giáo dục hiện tại là thấp so với những đòi hỏi bức thiết mà thời đại đặt ra, khi hiện tại Việt Nam vẫn đang lạc hậu hàng thế kỷ so với thế giới!
Việt Nam và một phong trào khai sáng mới?!
Việt Nam đến nay đã trải qua hơn 60 năm sau khi miền Bắc giành được độc lập, và hơn 30 năm sau khi đất nước thống nhất. Nhưng sau ngần ấy năm, tại sao Việt Nam vẫn là một nước nghèo và lạc hậu, dân trí vẫn chưa cao, với khoảng 70% dân số sống bằng nghề nông? Có quá nhiều lý giải viện dẫn hoàn cảnh lịch sử hay những tổn hại do chiến tranh, mà nếu cứ chấp nhận những lý giải ấy một cách hiển nhiên mãi, đó sẽ tiếp tục là trở lực cho chúng ta hàng nhiều thập kỷ nữa!
Và nếu chấp nhận lý giải ấy cho Việt Nam, hẳn sẽ ngạc nhiên đến mức phải thán phục về một thần kỳ Nhật Bản! Sau thế chiến II, do bị tàn phá nặng nề và nền kinh tế bị kiệt quệ, từ một nước giàu có với những thành quả đạt được sau Duy tân, Nhật Bản rơi vào nhóm các nước đang phát triển. Tuy vậy, chỉ sau không đầy 30 năm (1945 – 1973), Nhật Bản đã mau chóng phục hồi, để một lần nữa, vươn lên sánh vai cùng các liệt cường! Qua đó, hãy tự hỏi, Việt Nam có thể có một thần kỳ hay không?
Nếu như cách đây 100 năm, phong trào Duy tân của Phan Châu Trinh có thể nhận thức được tầm vóc của “khai dân trí” và đã được triển khai một cách sâu rộng, thì ngày nay đất nước Việt Nam cần làm thế nào để tạo ra được một phong trào xứng tầm hoặc cao hơn, để trí tuệ Việt Nam có thể tiến nhanh, ngang hàng với trí tuệ thời đại, để người Việt Nam có thể ngẩng cao đầu trước những vị khách đến từ Nhật Bản hay các nước Tây phương?
Thiết nghĩ, không dám bứt phá và không dám nghĩ khác, chấp nhận sự bảo hộ tư tưởng theo các chiều thông tin hạn định, cái tôi và con người cá nhân bị đồng hóa, ngại phải đối mặt với những khác biệt về tư tưởng trong một xã hội thiếu tranh luận tự do, chủ quan lo sợ về những đổi khác do những thành trì kiên cố của thói quen hay tập quán, v.v... là một phần lớn nguyên nhân khiến chúng ta vẫn chậm tiến trên con đường hòa nhập với thế giới!
Việt Nam cần phải thay đổi! Bạn muốn thay đổi? Tôi muốn thay đổi! Nhiều người, rất nhiều người khác nữa muốn thay đổi?! Chúng ta làm gì để thay đổi? Hãy cùng tìm những giải pháp khả thi và hiệu quả, có thể khai phóng tiềm năng trí tuệ của người Việt, để từ đó tạo lực đẩy mạnh mẽ đưa đất nước đi lên!
Những giải pháp ấy, từ lịch sử, có thể nhìn thấy ngay từ nhà cách mạng Phan Châu Trinh, khi cho rằng phải có dân chủ về thông tin để khai mở dân trí, và tiếp đến, người dân phải được trao cho đầy đủ “dân quyền”, phải có cơ hội có được hiểu biết để ý thức rõ các quyền của mình và thực thi nó với tất cả trách nhiệm mà không trao lại cho chính phủ như một sự ủy thác. Dân trí vẫn có thể phát triển, nhưng với một tốc độ chậm chạp, chừng nào người dân chưa đủ “can đảm trong việc sử dụng lý trí của chính mình”.
Những giải pháp ấy, từ lịch sử, cũng có thể rút ra từ phong trào khai sáng tại Nhật Bản, ở đó có sự tự do tranh luận để đạt tới sự đa dạng và sự phát triển năng lực của tư duy. Và thông qua tranh luận, các lý lẽ hợp lý đã được chắt lọc và trở thành những phương hướng cho việc hoạch định các chính sách đổi mới. Một điểm quan trọng khác, đó là những người mang sứ mạng khai sáng đã thực hiện sứ mạng của mình với tất cả trách nhiệm và tinh thần dám dấn thân vì đại cuộc!
Những giải pháp ấy, ngay từ trong hiện tại, có thể nhìn từ chính chúng ta, khi mỗi người là một cá thể chủ động và tích cực trong việc thay đổi thói quen và lối mòn của tư duy, bước qua những hàng rào cản trở việc tiếp cận những tri thức mới, phá vỡ những thành trì ngăn cấm việc tìm đến thế giới thông tin tự do vô vàn kỳ thú với những nguồn tri thức mênh mông...
Và những giải pháp khác, mà mỗi cá nhân có thể dùng “lý trí và lòng can đảm” của chính mình, theo như phương châm của khai sáng, để tìm ra phương cách thích hợp cho bản thân, cho gia đình, và cho xã hội...
Dân tộc Việt Nam vốn là dân tộc quả cảm với những con người quả cảm, với tinh thần tự hào dân tộc cao và không quản ngại khó khăn? Vậy thì, những người quả cảm và có tinh thần trách nhiệm, khi nhận thức được tính cấp thiết của việc mở mang dân trí, hãy là những người đi tiên phong cho một phong trào khai sáng mới, để dẫn dân tộc Việt Nam đi đến một thần kỳ – một thần kỳ Việt Nam!
____________________________________________
Chú thích:
(1, 2, 8, 9) “Hội trí thức Meirokusha và tư tưởng khai sáng ở Nhật Bản” – Vĩnh Sính
(3, 4) Tư tưởng, phong trào Khai Sáng là gì? – Bùi Quang Minh
(5) Nishimura Shigeki: giảng viên Hán học và về sau là trưởng phòng biên tập của bộ Giáo dục. Nishi Amane: một quan viên của hai chính quyền Tokugawa và Meiji và về sau là thứ trưởng bộ quốc phòng. Fukuzawa Yukichi: nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu và rộng nhất đến xã hội Nhật Bản cận đại.
(6, 7) Các cuốn sách hiện đã được dịch và được phát hành tại Việt Nam năm 2004
(10, 11, 12) Tính cập nhật kỳ lạ của một tư tưởng lớn – Nguyên Ngọc:
Tham khảo thêm:
Nhật Bản khác ta những gì – Nguyễn Lân Dũng:
Một sự nghiệp lớn và cấp thiết – Nguyên Ngọc: