Nguyễn Thanh Giang (Danlambao) - Qua lời tựa tập “Điêu tàn”, Chế Lan Viên đã ra một tuyên ngôn thơ nổi tiếng thời bấy giờ: “Hàn Mặc Tử nói: làm thơ tức là điên. Tôi nói thêm: làm thơ là sự phi thường. Thi sĩ không phải là người. Nó là người Mơ, người Say, người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại, nó xối trộn dĩ vãng. Nó ôm trùm tương lai”.
Sau Cách mạng Tháng Tám ông đã suy đi nghĩ lại về thơ rất nhiều (“Nghĩ suy 68”, “Nghĩ về thơ”, “nghĩ”...) để có lúc ông lại cho rằng “Thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh, không chỉ “ơi hời” mà con đập bàn quát tháo lo toan,...” Đến nỗi, ông còn không muốn làm “sự phi thường” đối với ngôn ngữ nữa mà trở về tập nói:
Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói
Chỉ nói thôi mới nói hết được đời
Bao giờ thuộc hết tiếng của đời, ta xin hát lại
Khúc hát hay đâu có lắm lời
(Sổ tay thơ)
Thế rồi, từ “Trường thơ loạn” với những “thơ điên”, “thơ thần bí”..., Chế Lan Viên làm “thơ thời sự”, “thơ chính trị”. Có tác giả xếp bài thơ “Calley Sơn Mỹ 3/68,” vào hàng “thơ chính luận” đặc sắc của Việt Nam.
Cùng trong thể loại thơ chính luận, người ta thường liên tưởng đến bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
Trong buổi Hội thảo tưởng niệm tướng Nguyễn Chánh (1) tại quê hương ông, có người còn vinh danh nhà quân sự này là “một nhà thơ chính luận”.
Một số bài thơ chính luận của vị tướng này được dẫn ra như sau:
CÁI CÙM
Cái cùm bay khoá chặt
Ta quyết đập tan ra
Đôi chân còn ràng buộc
Buộc sao nổi lòng ta.
KÊU GỌI LÍNH GÁC
Bạn ơi nghĩ lại đó mà coi
Rón bước đêm khuya gác giống nòi
Chung phận trâu cày và ngựa cưỡi
Vui chi vác súng với cầm roi
Bể dâu tôi bạn cùng chung gót
Quyền lợi mình, ta quyết chí đòi
Quét sạch quân thù ra khỏi nước
Con đường cộng sản sáng gương soi.
VỊNH CON THỎ BẠCH
Di truyền tinh huyết của cha ông
Lông trắng, môi son, cặp mắt hồng
Khỏi kiếp trâu cày và ngựa cưỡi
Nào hơn cá chậu với chim lồng
Nên, hư trước mặt - ngừng tai ngóng
Hoạ phúc bên mình - nhường mắt trông
Sống - thác phó cho người ấn định
Cõi trần còn mấy, biết hay không
Chưa được biết định nghĩa thế nào là “thơ chính luận” nhưng tôi cứ cảm nghĩ rằng ghép hai chữ chính luận vào mấy bài thơ trên cũng như bài “Đất nước” hay bài “Calley Sơn Mỹ 3/68” đều không thỏa đáng lắm. Có chăng đấy chỉ là những bài tức sự chính trị hay cảm tác chính khí …
Trần Nhơn mới thực là người đã dùng thơ để luận bàn về chủ trương đường lối chính trị, luận bàn về tư tưởng chính trị, luận bàn về chính sự …
Phải chăng, có thể xem đây là “hiện tượng Trần Nhơn” trong thi ca Việt Nam?
Nhà thơ chính luận Trần Nhơn đã có một thời cuồng nhiệt đi theo những nhà cách mạng lớp trước như Trần Độ “những mong xóa ác ở trên đời/Ta phó thân ta với đất trời” (2). Tuy không vào tù ra tội, không rơi xương đổ máu, nhưng nhờ tài năng, lòng nhiệt thành và trí tuệ bậc cao ông đã trở thành tiến sỹ và được đảng cất nhắc lên đển chức Thứ trưởng Bộ Thủy Lợi, nhưng cái thực tế trớ trêu “Tháng năm biến đổi, ác luân hồi” (2) trên đất nước này đã từng đầy đọa lương tri Trần Độ, nay lại vò xé lương tâm Trần Nhơn:
Một thời Đảng cuốn hút hồn tôi,
Đảng ấy dường như biến mất rồi!?
Dân chủ, tự do dìm xuống vực,
Độc tài toàn trị phất lên ngôi.
(Bão tố nổi lên rồi!)
Đảng xưa hội tụ lòng yêu nước,
Nay là nơi mua bán chức quyền (?!)
Thang giá trị, luân thường đảo ngược,
(Quốc sử “triều” ta)
Tuyên ngôn Độc lập mùa thu ấy,
Dân chủ, nhân quyền gió cuốn bay.
Chủ nhân ngập ngụa đời cua cáy,
Đầy tớ xông xênh bổng lộc dày.
(Văn hóa lâm nguy)
Đất nước bốn ngàn năm lịch sử
Bao giờ bi đát thế này chăng?
Rắn nhiều đầu ôm chân quỷ dữ,
Cầm tù lòng yêu nước nhân dân.
(Loạn luân chính trị)
Ông vò đầu suy nghĩ, cố tìm cho được cái nguyên nhân nào đã tạo sự xót xa cay đắng đẩy dân tộc mình vào bao nhiêu cuộc chiến để rồi:
Mười thập kỷ “thắng” trong đại bại,
Đất nước “trường tồn” trong đại vong!
(Chào Xuân Mới Nhâm Thìn)
Khác với nhiều người, trút hết tội lên đầu Các Mác, ông chỉ đích danh: Lênin mới chính là tội đồ, bởi vì:
Lê nin mượn Mác làm nền tảng,
Chế thành tà đạo phản nhân văn.
Cuồng say bạo lực, siêu quyền Đảng,
Xây nhà tù lớn nhốt nhân dân.
Dẹp quân chủ, xây nền đảng chủ,
Siêu quái thai lịch sử loài người.
Stalin, Mao Trạch Đông… đao phủ,
Hậu duệ Lênin tiếng để đời.
(Có chủ nghĩa Mác-Lênin?)
Đệ Nhất Quốc tế với sự tham gia của Mác qua năm kỳ đại hội vẫn chỉ thông
qua các nghị quyết: tán thành bãi công, thành lập công đoàn, đấu tranh
đòi ngày làm 8 giờ, đòi cải thiện đời sống công nhân. Nhưng đẩy Mác vào
vòng máu lửa, Lênin thành lập Đệ Tam Quốc tế với cương lĩnh hoạt động là
đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa, thiết lập chuyên chính vô sản, mà theo Trần Nhơn thì:
Quốc tế Ba quái thai chính trị,
Mưu toan nhuộm đỏ cả hành tinh.
Lò chuyên chính vô luân phi nghĩa
Chôn sâu rồi mùi vẫn hôi tanh!
(Đảng và cụ Hồ)
Nhìn lại một trăm năm “bách chiến”:
Lênin tà đạo thật kinh hoàng!
(Chào Xuân mới Nhâm Thìn)
Cho nên Trần Nhơn đã kết tội:
Lênin tội ác tày trời,
Kéo lùi lịch sử về thời dân nô.
(Chôn vùi đảng trị vững bền nước non)
Và lên án cái nhà nước chuyên chính vô sản của Lênin:
Lập nhà nước chuyên chính vô sản,
Thực chất là vô học vô luân.
Độc tôn chính đảng thành băng đảng,
Lùa dân vào “địa ngục dương trần”.
(Khi quốc sách chìm trong quốc nạn)
Chuyên chính vô sản dẫn dến đảng độc tôn, đảng toàn trị làm cho chính đảng trở thành băng đảng, nhốt nhân dân vào địa ngục ngay trên trần thế. Cho nên, là “đảng viên cỡ bự”, được quyền cùng đảng ăn trên ngồi trốc nhưng, hơn ai hết, Trần Nhơn vô cùng căm ghét “toàn trị”. Ông nắm cổ nó mà rủa xả đay nghiến, bằng những “điệp khúc thơ” (3) liên hồi, như muốn gi nát nó dưới chân:
Toàn trị - loài buôn xương bán máu,
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô”.
Vắt chanh bỏ vỏ bầy nô cẩu,
Mặt nạ rơi, hiển diện tội đồ!
Toàn trị kiêu căng và hợm hĩnh,
Coi trời bằng... khuy áo, đầu đinh.
Nhưng không dám cạnh tranh bình đẳng
Giữa nghị trường đa đảng văn minh. (2)
Toàn trị xây đời nô lệ mới,
Bốn ngàn năm văn hiến lụi tàn.
Công nông, trí thức thành “tôi mọi”
Phò “hôn quân tập thể”, gian thần.
Toàn trị đánh cắp lòng yêu nước,
Loại trừ các chính đảng đồng hành.
Nhập bọn cùng nội xâm, ngoại thuộc,
Ăn mày dĩ vãng, mãi hư danh.
Toàn trị - tập đoàn phi chính nghĩa,
Mị lừa dân cưỡng đoạt chính danh.
Là nỗi đau dài xuyên thế kỷ,
Chính quyền hay đạo tặc lộng hành?
Toàn trị chuyên ngón nghề tẩy não
Hiền tài thành bồi bút, văn nô.
Lời huyết lệ gửi vào di cảo,
Phẫn hận mang theo xuống đáy mồ.
Toàn trị giành độc quyền yêu nước,
I tờ nghề đối ngoại nhân dân.
Với chính sách lân bang khiếp nhược,
Được đằng đầu, lân tiếp đằng chân.
Toàn trị lún sâu vào tử huyệt,
Xây nhà tù lớn nhốt nhân dân.
Hình sự hóa ngàn lời tâm huyết,
Diệt ân công, bức hại trung thần.
Toàn trị đứng ngồi trên đống lửa,
Gã khổng lồ đầu rỗng, tim đen.
Chân đất sét, miệng hùm, gan sứa,
Sợ mặt trởi, chui rúc bóng đêm.
Toàn trị - Tổ quốc là phương tiện
Xây vương triều “còn Đảng còn mình”.
Bao giờ phận con giun, cái kiến
Dân lành nhìn ánh sáng văn minh?
(Toàn Trị – Một góc nhìn)
Ông gọi độc đảng, toàn trị là loạn luân chính trị:
Dân chủ, Cộng hòa hay Cộng sản...
Bất luận mang tên, nhãn mác gì,
Nếu xếp loại vào dòng độc đảng,
Ắt là loài toàn trị man di!
Toàn trị là loạn luân chính trị,
Đảng đè đầu, cưỡi cổ muôn dân.
Đè đầu Đảng – một vài “đồng chí”,
Đè lên “đồng chí” – lũ gian thần.
Đồng chí chỉ còn là... đồng lõa,
Gầm ghè, đấu đá, khử trừ nhau.
Rồi dàn xếp, điều đình, mặc cả,
Phân ngôi, chia ghế hưởng sang giàu.
Đảng? Nhà nước? - Chỉ là phương tiện
Xây vương triều chuyên chế độc tài.
Dân lành phận con giun, cái kiến
Trong “thiên đường nô lệ” tương lai.
(Loạn luân chính trị)
Cách mạng Tháng Tám thành công, ánh sáng nhân quyền mới ló rạng trong Tuyên ngôn Độc lập mồng 2 tháng 9 thì bóng đen toàn trị của ĐCSVN đã phủ đêm dày mịt mùng lên đất nước:
Nguồn ánh sáng nhân quyền Tháng Tám
Chìm trong đêm toàn trị mịt mùng.
(Bao giờ mới hết ngu lâu?)
Từ đấy:
Chuyên chính độc tài, kẹp kìm báo chí,
Nhất lập tam quyền, bóp nghẹt tự do.
Mặt nạ rơi, lãnh tụ hóa tội đồ,
Từ đấy:
Tám mươi triệu người chỉ viết lén, nói chay,
Chưa có nổi trong tay một tờ dân báo!
Mấy trăm lò “báo vẹt” như dàn đại pháo
Sẵn sàng khạc đạn vào công dân cô đơn.
Còng số tám (8), điều tám tám (88) chập chờn
Trong ác mộng, lúc trà dư, tửu hậu.
Chạy một vòng tròn bảy mươi năm tranh đấu,
Càng lùi xa vạch xuất phát ban đầu.
Báo tư nhân thời thuộc Pháp đa sắc màu:
Tiếng Dân, Ngày Nay, Nam Phong, Thanh Nghị;
Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Dương Tạp Chí,
Tri Tân, Con Đường Chính, Khúc Tiêu Sầu
(Nỗi đau này ai có thẻ sẻ chia!)
Đánh đuổi thực dân Pháp để tròng lên cổ nhân dân Việt Nam một cái ách toàn trị còn hà khắc, nghiệt ngã hơn thực dân Pháp!
Đánh đuổi đế quốc nọ để lại rước con voi Đại Hán tàn tệ hơn kia về giầy mả tổ!
Thái thú đỏ độc quyền “yêu nước”,
Rước voi giày mả tổ cầu vinh.
(Khi quốc sách chìm trong quốc nạn)
Chui vào rọ bá quyền Bắc thuộc,
Bán lương tâm, phụ chính phù tà.
Phong thánh cho gian hùng mãi quốc,
(Quốc sử “triều” ta)
Đối ngoại nạm vàng mười sáu chữ,
Quỵ lụy, nâng bi, hiến đất đai.
Sa bẫy nên biến thành thái thú,
Hay cuồng si bám giữ ghế ngai?
(Chế độ nào giải Trung thoát Hán?)
Không đặng đừng được nữa với cái họa Bắc thuộc đã nhỡn tiền, Trần Nhơn khẩn thiết kêu gọi:
Phải bẻ gãy kim cô Bắc thuộc,
Độc tài toàn trị hậu Lê – Mao.
Tháo cạm bẫy “chữ vàng”, “bốn tốt”,
Đại quy Trí Dũng dẹp binh đao.
Không thể trông mong ở những người lãnh đạo trong sự nghiệp chống Bắc thuộc bảo vệ danh dự tổ quốc nữa rồi:
Đã trót "ngu lâu", sập bẫy rồi,
Tìm đường tháo gỡ thoát ra thôi!
Thành Đô (3) - cột mốc đen ô nhục,
Sử xanh còn lưu giữ muôn đời.
Phiêu, Mạnh cũng là Tổng... dở hơi,
(“U mê”, “thiển cận” tựa Linh, Mười)
Dại gái, tham quyền thay mốc giới,
Tây nguyên bô – xít tội tầy trời!(4)
(Chào Xuân Mới Nhâm Thìn)
Là “mọt sách” Mác cùn Lê rỉ
Hững hờ với quốc nhục Thành Đô.
Câu Tiễn trường kỳ khổ nhục kế,
Hay “đầu sai” Mao Đặng Giang Hồ?
(Nghĩ về Nguyễn Tấn Dũng và... thời cuộc)
Ông kêu gọi phát động chiến tranh nhân dân để bảo vệ biển đảo:
Mở mặt trận chiến tranh nhân dân,
Mười vạn ngư thuyền cảm tử quân.
Bám biển giữ vẹn toàn lãnh hải,
Noi gương Tàu – Không - Số anh hùng.
Giặc “mười sáu chữ lừa, bốn đểu”
Đến biển nhà, ngư phủ ra tay.
Hợp đồng quân chính qui tinh nhuệ,
Ắt xua tan hải tặc cướp ngày!
(Chế độ nào giải Trung thoát Hán?)
Trước thảm cảnh nhân dân rên xiết mãi trong quốc nạn và ngoại tặc:
Đất nước chìm trong tổng khủng hoảng,
Chui sâu vào cạm bẫy Bắc Kinh.
Tham nhũng, quan liêu thành quốc nạn,
Bão lòng, bão giá, bão... niềm tin.
(Ai tái cấu trúc ai?)
Trần Nhơn nén một tiếng thởi dài:
Sầu thế kỷ suốt đêm dài cay đắng,
Mỏi mòn trông, thăm thẳm ánh bình minh.
(Ai tái cấu trúc ai?)
Và ngóng đợi:
Xã hội vào thời “cùng tất biến”,
Đợi đến khi nào “biến tất thông”?
(Chế độ nào giải Trung thoát Hán?)
Trần Nhơn có bi lụy không?
Không, bởi vì ông đã nghe thấy và nhìn thấy:
Biển chỉ đường ở trong lòng ta đó,
Lời nước non giục giã: Dậy mà đi!
Khai trí, tu tâm, bắn phá sức ì,
Thôi khoác lác, lắng nghe lời bách tính.
(Sầu)
Ông cảnh báo và khuyên nhủ các nhà lãnh đạo:
Bớt vị kỷ, nâng tầm nhìn, bản lĩnh,
Hãy nói lời khôn trước lúc rớt đài,
(Sầu)
Cùng với Trần Nhơn, chúng ta tin rằng chế độ chính trị nào rồi cũng như chiếc áo cũ bục ra rơi xuống, chỉ còn lại nhân dân sẽ cường tráng và đẹp tươi hơn khi khoác lên mình tấm áo mới:
Chế độ ra đi, người ở lại:
Tầng lớp tinh hoa, biết dại khôn,
Trừ thiểu số “côn đồ chính trị”
Rước voi giày mả tổ cầu vinh,
“Người ở lại” đa mưu túc trí:
Chủ lực quân tái thiết “triều đình”.
(Chế độ nào giải Trung thoát Hán?)
Cũng như “Thơ Bút Tre”, “Hiện tượng Trần Nhơn” rồi sẽ được ghi nhận trong thi đàn Việt Nam. Và hơn thế, nỗi ưu thời mẫn thế vì đất nước, vì dân tộc tấu lên thành thơ của Trần Nhơn sẽ được tri ân.
*
Rút trong cuốn “ĐÊM DÀY LẤP LÁNH”
Mobi: 0984 724 165
Email: thanhgiang36@yahoo.com
Thư viện mạng: www.nguyenthanhgiang.com
_________________________________________
Ghi chú:
- Tướng Nguyễn Chánh (1914 – 1957), người Quảng Ngãi, năm 1945 lãnh đạo đội du kích Ba Tơ. Năm 1954 là Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
- Thơ Trần Độ
- Không chỉ là nhà khoa học, nhà lãnh đạo, Trần Nhơn còn là nhạc sỹ có hạng với trên 30 ca khúc, trong đó nhiều ca khúc đã đi vào lòng người: Biển gọi hè về, Hà Nội mến yêu ơi, Khúc hát người xây dựng, Mùa xuân Tây Nguyên, Nhịp điệu Trị An, Nhớ về đất Tổ, Sông Đà mùa xuân...