Tiếng bom Đoàn Văn Vươn vang dội
Trong lương tri mỗi người Việt Nam.
Hải Phòng đã thật tình sám hối,
Nghe súng nổ bên đầm Cống Rộc,
“Thiên đường mù” bừng tỉnh cơn mơ.
Nhắc quan tặc tham lam, ngu ngốc,
Chớ quên câu “tức nước vỡ bờ”!
Ông Trọng thực lòng chỉnh đốn đảng,
Chông chênh bên bờ vực tồn vong,
Mời về coi quan tham Tiên Lãng
Dồn lương dân vào bước đường cùng.
Trung ương thực lòng xây dựng đảng,
Hãy về với Tiên Lãng – Hải Phòng.
Học, làm theo “kỳ tài đất cảng”,
Diệt cường hào, hưng chấn Tam nông.
Suốt ngày bám bờ sông, bãi sú,
Trông đường đê, rặng chuối, đầm tôm.
Tranh chấp với sóng cuồng, bão dữ,
Chí nam nhi thỏa sức vẫy vùng.
Gian khó, nhọc nhằn sao tả hết,
Mười bảy năm đổ xuống đất này.
Nợ chồng nợ, nỗi đau con chết,
Cơ đồ mới có được hôm nay.
Cắt dòng chảy, nắn sông Văn Úc,
Khoanh vùng đắp đập đón phù sa.
Trồng rừng cây hộ bờ chống sóng,
Giữ bình yên cuộc sống mọi nhà.
Khi Vươn nhận đắp đầm Cống Rộc,
Ai cũng cười chê “dự án khùng”.
Bằng nghị lực, bàn tay, khối óc,
Chúa độ trì, anh đã thành công.
Lão cao niên nghẹn ngào, uất ức:
Vươn góp công to lớn cho đời.
Cả nhà bỏ biết bao công sức,
Đội nắng mưa, vật lộn với trời.
Vậy mà bọn Hiền – Liêm địa tặc
(“Sếp” to nào cài cắm, thông gian?)
Cướp trắng máu, mồ hôi, nước mắt,
Hiền - Thoại - Ca tung hứng làm càn.
Đoàn Văn Vươn thay trời hành đạo,
Trị cường hào mọt nước sâu dân.
Lũ địa tặc cướp ngày phơi áo,
Dính đạn chùm chuốc họa vào thân.
Người lính vì nhân dân chiến đấu,
Nay quay đầu đàn áp nhân dân,
Nghĩa quân đã biến thành thảo khấu,
Nỗi đau này trời có thấu chăng?
Trong các điều lệnh của quân đội,
Có khoản nào cho phép quân quan
Đeo mặt nạ “thi hành công vụ”,
Điều binh bố trận chống dân làng?
Bi hài kịch ăn đạn hoa cải,
Lính cụ Hồ nhắc lính Trọng Sang:
Nông dân Việt không còn sợ hãi,
Đừng đổ thêm!... Ly nước đã tràn!
(Không dám cưỡng chế giặc bành trướng,
Quân đội quay về cưỡng chế dân.
Lạm ban phát quân hàm tá tướng,
Thẻ đỏ tim đen thoái hóa dần.)
Tiếng súng nổ liên hồi hoa cải
Không nhằm vào đám ngụy quân quan.
Mong đánh thức cộng đồng sợ hãi
Đồng thanh vạch mặt lũ cường gian.
Nồi súp de người hùng Tiên Lãng,
Nén lâu, xú páp bật lò xo.
Bài học muôn đời “cùng tất loạn”,
Áp Bức quy hàng trước Tự Do.
Cựu chiến binh - kỳ tài lấn biển,
Luôn phòng thủ trong thế tiến công.
Chất thép trong con người lính chiến
Làm nên “kỳ tích” của người hùng.
Cướp ngày sao gọi là “công vụ”,
Cường hào lại đội mũ huyện quan?
Nhờ Vươn, Quý kiên cường kháng cự,
Mới lột trần vỏ bọc ngụy trang.
Vươn không chống người hành công vụ,
Giúp đảng trừ sâu mọt hại dân.
Loại “gian bộc” Hiền - Liêm - Ca - Thoại,
Trọng Sang Hùng Dũng thấy còn cần?
Nhờ tiếng súng anh Vươn kêu cứu,
Cháy nhà mặt chuột hiện dần ra.
Ôm hận tự thiêu tìm chín suối,
Làm sao lộ diện Đỗ Ca Ca?
(Sao ta tự gông đầu, khóa miệng,
Rồi âm thầm nguyền rủa mọt sâu.
An phận làm con giun, cái kiến,
Ai giúp mình thoát kiếp ngựa trâu?)
Biến cố Đoàn Văn Vươn nhắc nhở
Các tập đoàn toàn trị vô lương:
Mèo ngoan sẽ biến thành mãnh hổ
Khi bị dồn vào sát chân tường.
Sau nhiều ngày đổ quanh chối quẩn,
Huyện, Thành phố lấn cấn, chần chừ.
Tiếng nói Hội Nuôi trồng Thủy sản,
Quả bom dân sự nổ vang trời:
Báo cáo mười một trang A bốn (A4)
Tháo van, dòng sự thật tuôn trào.
Lũ cướp ngày hết đường chạy trốn,
Tranh nhau tìm ống cống chui vào.
“Luật địa phương” đè lên luật nước,
Hội nuôi tôm lên tiếng từ lâu.
Đội đơn vòng cổng sau, cửa trước,
Lại về nơi xuất phát ban đầu!?
Tiên Lãng - chuyện thường ngày ở huyện,
Cường hào, tư bản đỏ hiệp thông
Cướp đất, ăn chia siêu lợi nhuận,
Triệu dân oan đè cổ, bịt mồm.
Dịch cướp đất lan tràn khắp nước,
Từ Ba Sương tới Đoàn Văn Vươn.
Báo “lề phải” trưởng thành, “lột xác”,
Dồn quan tham vào thế cùng đường.
Vụ Tiên Lãng phơi bày trần trụi
Một vương triều đang chết lâm sàng.
Đảng tê liệt, chính quyền ung thối,
Siết luật rừng bức tử dân oan.
Tướng (Lê Đức) Anh dồn tội cho huyện, xã,
Với cách nhìn thiển cận “bảo hoàng”.
Thành phố không vẽ đường hươu chạy,
Làm sao có tiếng súng Vinh Quang?
Hà Nội không độc tài, độc đảng,
Không “nhất nguyên”, “nhất lập tam quyền”,
Làm sao có tiếng bom Tiên Lãng
Gọi Mùa Hoa Cải tháo gông xiềng?
Hiền - Liêm có thể nào bất chấp,
Lập mưu gian cưỡng chế dân lành,
Dưới ánh sáng Tam quyền phân lập,
Nền cộng hòa pháp trị văn minh?
Còn “cuồng tín” Lê nin tà đạo
(Trí thức tinh hoa là cục phân,
“Chuyên chính vô học” là quốc bảo),
“Đảng ta” còn “phản bội” nhân dân.
Giòi tham nhũng “bò la bò lết”
Trên bãi phân toàn trị thối tha.
Nhặt dăm ba con ra đập chết,
Vẫn còn nguyên “đảng trị cộng hòa”!
Mọi chế độ “độc quyền chân lý”,
Kẻ rắp tâm dương súng bóp cò
Luôn thuộc về tập đoàn thống trị,
Bán lòng tin mua lấy mặt mo.
Tiếng súng Đoàn Văn Vươn – tiếng hét
Gọi trời cao, kêu cứu đồng bào.
Hết đường sống xin đành liều chết
Với mọt sâu địa đặc cường hào!
Tiếng mìn Đoàn Văn Vươn gào thét:
Luật đất đai sở hữu “cha chung”.
Kẽ hở cho quan tham vơ vét,
Đẩy nông dân vào cảnh khốn cùng!
Đoàn Văn Vươn đi vào lịch sử,
Lập đại công giúp nước cứu nhà.
Phạt “hải tặc” mở miền đất hứa,
Trừ tham quan chấn thiết sơn hà.
Bắc Phi, Myanmar sống động,
Mỹ quay về châu Á, Thái Bình Dương.
Tàu phơi mặt dã tâm, cuồng vọng...
Trời cho bài học Đoàn Văn Vươn.
Cả nước đau lòng vì Tiên lãng,
Hải Phòng ô nhục bởi Vinh Quang.
Nhâm Thìn vào mùa Chỉnh đốn đảng,
Đất cảng cho ta trọng điểm vàng!