Phạm Chí Dũng (BBC) - Trong hàng ngũ lãnh đạo kế thừa lớp cách mạng tiền bối, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có thể là một nhân tố biết phát ra sáng kiến vào những thời điểm cần kíp và đòi hỏi tính “quyết liệt”.
Từ thời điểm ý tưởng cần có Luật Biểu tình được người đứng đầu cơ quan hành pháp cao nhất chính thức phát ra vào tháng 11/2011, một năm rưỡi đã lặng trôi với tinh thần đóng kín từ những người đứng đầu cơ quan lập pháp “của dân, do dân và vì dân”.
Chỉ vài ngày sau khi khai mạc kỳ họp thứ 5 của Quốc hội, người thay mặt cho Ủy ban Pháp luật của cơ quan dân cử tối cao này là ông Phan Trung Lý đã lập tức “bác” khá nhiều đề xuất từ phía Chính phủ.
Những đề xuất trên nằm trong 7 nhóm vấn đề của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và thuộc về những chủ đề bị coi là “nhạy cảm” như Luật Biểu tình, Luật Trưng cầu dân ý, Luật Đất đai…
Chính phủ trình, quốc hội bác?
Cho dù biểu tình là một thứ quyền đã được hiến định trong Hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nhưng 38 năm từ ngày thống nhất đất nước, vẫn chưa có bất kỳ một văn bản nào thực thi Hiến pháp về Luật Biểu tình theo đúng tinh thần cộng hòa như ở nhiều nước phát triển trên thế giới.
Và như thể tạm thời, “xã hội chủ nghĩa” vẫn giữ nguyên hàm ý “quá độ” khi Quốc hội xem xét việc đổi tên nước.
Thực trạng hổng luật cũng là một trong những nguyên do chủ yếu khiến các cuộc biểu tình chống Trung Quốc can thiệp đã rơi vào tâm thế “vi hiến” và bị chính quyền cùng công an trấn dẹp thẳng tay.
Nhưng trong suốt chiều dài con sóng phản ứng của người dân về chủ quyền biển đảo, Ủy ban TVQH vẫn đều đặn thông qua nhiều đạo luật. Chỉ ngắn gọn là không một luật nào mang tính can dự vào “Mười sáu chữ vàng”.
Kỳ họp tháng 5-6/2013 cũng “ngắn gọn” như thế.
“Tại một kỳ họp quốc hội chỉ có thể thông qua từ 10-13 luật. Trong khi đó, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp sẽ được thông qua vào cuối năm 2013 nên năm 2014 sẽ phải sửa đổi, bổ sung nhiều luật về tổ chức bộ máy nhà nước, các luật phục vụ cho việc tái cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh” - Ủy ban TVQH phác ra lý do như vậy, lồng trong một báo cáo mang tính định hướng của ông Phan Trung Lý.
Lý do trên nhằm “không tán thành với đề xuất của Chính phủ đưa Luật Biểu tình, Luật Trưng cầu ý dân”.
“Hố phân cách” giữa Quốc hội và Chính phủ, hay nói cách khác là giữa nhóm lãnh đạo của hai cơ quan lập pháp và hành pháp dường như đã trở nên sâu sắc và lạ lẫm chưa từng có.
Hiện tượng này lại như đồng nhất với bầu không khí đầy suy tư cùng bất ngờ của Hội nghị trung ương 7 của Đảng, cũng diễn ra vào tháng 5/2013 và trước kỳ họp quốc hội, kèm theo kết quả nhân sự không thể ích lợi hơn cho những người theo chủ thuyết “lợi ích”.
'Dân biểu đề xuất, quốc hội bác'
Luật Biểu tình được chính thức nêu ra trong phiên họp Quốc hội hồi tháng 11/2011 |
Gần đây, ấn tượng nhất có lẽ là đề xuất đưa Luật Biểu tình vào chương trình năm sau của đại biểu quốc hội thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung.
Ông Chung hiện là Giám đốc Công an TP Hà Nội. Và Hà Nội lại là trung tâm của nhiều cuộc biểu tình tự phát chống “các thế lực thù địch” - hiểu theo nghĩa nào cũng được.
Nghĩa là nếu cả công an cũng đồng thuận với Luật Biểu tình, điều gì sẽ diễn ra?
Tất nhiên, hiện tượng hiếm hoi trên có thể biến thành một dấu hỏi lớn, nhất là về điều cần được coi là “lòng chân thành chính trị” - cụm từ mà các nhà nhân quyền và giới phân tích chính trị phương Tây dành để biểu tả về tổng thống Thein Sein của Myanmar - đối với những người mang sắc phục ở Việt Nam.
Nhưng dù là thế nào, tư tưởng cũng đang diễn biến sang hành động.
Một năm rưỡi sau năm 2011, đã xuất hiện những nhân vật khác.
Không chỉ ông Nguyễn Đức Chung, mà như lời trần thuật của luật sư và cũng là đại biểu quốc hội Trương Trọng Nghĩa thì “Tôi cũng trao đổi với nhiều vị công an và họ cũng mong có Luật Biểu tình”.
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa cho rằng xây dựng Luật Biểu tình là để “trả nợ” nhân dân nhưng cũng giúp cho nhà nước, bởi quản lý vấn đề biểu tình như hiện nay là không thích hợp.
“Hố phân cách” giữa Quốc hội và Chính phủ, hay nói cách khác là giữa nhóm lãnh đạo của hai cơ quan lập pháp và hành pháp dường như đã trở nên sâu sắc và lạ lẫm chưa từng có."
Nhưng điều có vẻ rất khó hiểu là trong khi Chính phủ - cơ quan phải chịu trách nhiệm trực tiếp và mệt mỏi nhất về việc giải quyết khiếu kiện và biểu tình đông người - đã đồng thuận với phương án cần có Luật biểu tình và Luật trưng cầu ý dân, thì Ủy ban TVQH lại không chấp thuận, dù Quốc hội chính là cơ quan thể hiện quyền lực và quyền lợi cao nhất của người dân.
Sau khi xảy ra bất đồng chưa có tiền lệ trên, trong cuộc họp báo thường kỳ cuối tháng 5/2013, chủ nhiệm Văn phòng chính phủ Vũ Đức Đam đã phát đi thông điệp “Chính phủ giữ nguyên quan điểm góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992”, tức bao gồm cả vấn đề xem xét đưa raLuật Biểu tình.
Nhưng những người của Ủy ban TVQH, sau Hội nghị trung ương 7 của Đảng với những động thái “nội bộ” nhưng lại được quá nhiều người dân vỉa hè biết đến, dường như vẫn cố gắng bảo lưu quan điểm bất đồng thuận với Chính phủ về một số vấn đề “nhạy cảm”.
Vận mệnh quốc gia?
Không thể mô tả khác hơn, đời sống nhân dân đang lặn hụp trong nỗi bất an ngập ngụa rủi ro nhưng vẫn chưa thấy đáy. Giờ đây, tất cả chỉ còn biết ngóng trông vào một tinh thần “đồng nguyên” nào đó giữa những chính khách cao nhất, hầu mong có thể xoay chuyển vận mệnh quốc gia.
Vậy những người của Chính phủ và đại đa số đại biểu quốc hội sẽ làm thế nào để biến hứa hẹn thành hành động - một loại hành động vì lợi ích của dân chúng chứ không phải thiên lệch cho những nhóm lợi ích đã dày vò quá tàn nhẫn nền kinh tế và dân sinh ở Việt Nam?
Liệu trong thời gian còn lại của kỳ họp quốc hội lần này sẽ xuất hiện thêm những khuôn mặt đại biểu, hoặc cũ hoặc mới, với những đề nghị ủng hộ các đề xuất có vẻ hợp lòng dân của Chính phủ?
Một “gương mặt mới” của Chính phủ và những người thuộc về nó có thể là cần thiết và “lâm thời”, với điều kiện những gì thủ cựu cần được đưa vào bảo tàng.
Bài học nhãn tiền về hòa hợp và hòa giải đã có sẵn ngay trong khu vực Đông Nam Á.
Chỉ bị ngăn trở với Việt Nam bởi chưa đầy một trăm cây số đường biên giới Trung Quốc, nền dân chủ Myanmar đã lột xác kỳ diệu chỉ trong vòng hai năm.
Những gì mà Thein Sein và giai cấp của ông đã làm được, dù không tránh khỏi động cơ và động lực của tư tưởng lợi ích nhóm và chủ nghĩa thân hữu, vẫn đã mở ra một lối thoát khả dĩ cho những chính khách khôn ngoan, nếu so với triển vọng phải sống lưu vong hoặc mất trắng.