Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 194 (01-05-2014)
Bán Nguyệt San Tự Do Ngôn Luận - Sau biến cố 30-04-1975 mấy ngày, bí thư thứ nhất CS Lê Duẩn, kẻ cầm đầu cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa, đã từ Hà Nội vào Sài Gòn ăn mừng chiến thắng. Tại đó, trước quần chúng chưa hết bàng hoàng vì sự thay đổi cục diện chính trị, ông ta giở trò mỵ dân: “Không có bên thắng bên thua giữa người Việt với người Việt. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người chiến thắng cuối cùng cuộc chiến tranh giải phóng này”.
Tiếp đó, trong lễ mừng chiến thắng được tổ chức ngày 15-5-1975 tại Hà Nội, Lê Duẩn lại tuyên bố: “Chào mừng tổ quốc vinh quang của chúng ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát khỏi họa chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập tự do. Trong 4.000 năm lịch sử của dân tộc ta thì hơn 100 năm lại đây là chặng đường đấu tranh chống ngoại xâm gay go nhất, quyết liệt nhất, nhưng cũng thắng lợi vẻ vang nhất”.
Những lời này chẳng trấn an và thu phục được ai ở miền Nam, vì người dân chế độ cũ đã lập tức nếm vị cay đắng của cái gọi là “cuộc giải phóng”, một cuộc “giải phóng” mau chóng biểu hiện qua thói nghênh ngang cao ngạo, trò lùng sục dò xét và những màn vơ vét chiếm đoạt của phe chiến thắng đối với phe chiến bại. Nhiều người miền Bắc ban đầu cũng thấy vui vì chiến tranh chấm dứt, song khi chứng kiến được một miền Nam trù phú, họ mới thấy hóa ra cuộc “giải phóng” vốn đã đòi hỏi bản thân và gia đình họ hy sinh của cải và nhân mạng trong bao năm trường chỉ là chiêu bài tồi tệ, cú lường gạt vô liêm sỉ. Các thành viên cốt cán trong cái gọi là “Mặt trận Giải phóng Miền nam” cũng sớm nhận ra trò vắt chanh bỏ vỏ mà Hà Nội đang từ từ chơi với họ, cũng sớm hận mình đã chỉ là những kẻ “yêu nước” u mê, những “con cờ” khờ khạo trong tay đảng. Một số như Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Lê Văn Hảo phải bỏ chạy ra nước ngoài trong bất mãn tột cùng, còn số khác như Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Xuân Ẩn đã đi về thế giới bên kia trong nỗi niềm cay đắng... Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu. Vì cũng chính tay Lê Duẩn ấy đã quyết định “trừng phạt” quân cán chính VNCH qua chính sách “học tập cải tạo” mút mùa vì đã dám “chống lại cách mạng”, cũng như quyết định “đày đọa” nhân dân miền Nam, “hậu phương của Mỹ-Ngụy” qua chính sách bóc lột sạch sành sanh. Thế là cùng với “cụ hoạn” Đỗ Mười, cả hai y chang nhau về sự cuồng tín đối với học thuyết kinh tế Mác-Lê ngu xuẩn, sự dốt nát về học thuyết kinh tế tư bản tiến bộ và sự mù quáng tin rằng đảng có thể “cải tạo mọi sự”, Lê Duẩn đã dùng tất cả sức mạnh bạo lực san bằng xã hội phồn thịnh miền Nam xuống ngang hàng với xã hội bần cùng miền Bắc, đẩy toàn thể đất nước đến bờ vực thẳm khánh kiệt sau 10 năm hậu chiến. Đó là chưa kể việc áp dụng cách sắt máu học thuyết “giải phóng con người” của Mác-Lê-Sít-Mao-Hồ bằng cách tước đoạt mọi tự do, mọi nhân quyền và dân quyền, đã khiến hàng triệu đồng bào phải đành đoạn bỏ nước ra đi, bất chấp muôn vàn nguy hiểm, và hàng chục triệu đồng bào ở lại trở thành thần dân nô lệ.
Đến khi buộc phải mở cửa kinh tế để khỏi chết chùm với nhau, nhất là để cho đảng viên mặc sức làm giàu nhờ quyền lực và đặc lợi, đảng lại giở chiêu bài “giải phóng” mới, “giải phóng sức sản xuất”, bằng cách thu tất cả đất đai tài nguyên vào tay nhà nước để gọi là “sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa” và thành lập các công ty, tập đoàn quốc doanh để thực hiện nền “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (nghĩa là nhắm phục vụ tập thể hơn là mưu lợi tư riêng)! Đảng luôn nhồi nhét vào đầu óc nhân dân điều ấy trong giáo dục học đường cũng như giáo dục quần chúng từ mấy chục năm qua để cho thấy “sự ưu việt gấp ngàn lần, triệu lần” của “chế độ xã hội chủ nghĩa”. Nhưng “giải phóng sức sản xuất” để “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa” đâu chẳng thấy, chỉ thấy kinh tế ngày càng lụn bại, tài chánh ngày càng thất thoát, nợ công ngày càng chồng chất, công ty ngày càng phá sản, dân sinh ngày càng khốn khổ điêu đứng, trong lúc đó thì cán bộ gộc, đảng viên to từ vô sản thành tư bản, từ chiếc xe đạp lên đến xe hơi nhà lầu, từ anh khố rách áo ôm trở thành đại gia ruộng đất, đại chủ công ty, từ “không tơ hào cây kim sợi chỉ của dân” đến đòi hối lộ hàng triệu đôla Mỹ. Nghĩa là nền “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” nhằm “giải phóng sức sản xuất của dân và nước” như đảng nói chỉ là một sự thất bại hoàn toàn. Thế mà hôm 14-3-2014, trong hội nghị tổng kết việc thi hành Bộ luật hình sự năm 1999 được tổ chức tại Hà Nội, phó thủ tướng CS Nguyễn Xuân Phúc vẫn trơ trẽn tuyên bố: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm sức mạnh quốc gia tăng lên rõ rệt”!?! Những lời huênh hoang của Lê Duẩn trên kia: “Tổ quốc vinh quang của chúng ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập tự do” đã sớm được minh chứng bằng sự xâm nhập ngày càng rộng và sâu của tên Đại Hán, kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc, nhờ sự hèn nhát bạc nhược cũng như sự đồng lõa toa rập của đám chóp bu Ba Đình. Nay có lãnh vực nào mà không có sự khuynh loát của bọn Tàu, có lãnh địa nào mà không có sự hiện diện của người Hoa? Phải chăng đây là một kiểu giải phóng mới? Giải phóng khỏi tinh thần và ý chí Lạc Việt để trở về với “cố quốc Trung Hoa” như mưu tính âm thầm của những tên thái thú xác Việt hồn Tàu hay gốc gác Tàu ở Ba Đình Hà Nội?
Những năm gần đây, dưới sự tố cáo và đòi hỏi của đồng bào trong lẫn ngoài nước cũng như sự theo dõi và trói buộc của các chính phủ dân chủ lẫn tổ chức nhân quyền, Ba Đình lại chơi trò khác: lấy nhân quyền làm bình phong. Nhiều động thái ngoạn mục đã được Hà Nội liên tiếp thực hiện: vận động để vô Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp quốc và đã lọt thỏm dễ dàng vào đó ngày 12-11-2013 (do chẳng bị ai cạnh tranh cả). Trước đấy mấy hôm, ngày 07-11-2013, VN đã trở nên thành viên mới nhất của Công ước Liên Hiệp quốc chống Tra tấn; tiếp đến, nhà cầm quyền quyết định chọn ngày 09 tháng 11 hàng năm làm Ngày Pháp luật. Đến hôm 28-11-2013, Quốc hội lại thông qua Hiến pháp mới trong đó dành nguyên cả chương II (từ điều 14 đến điều 49) để nói về quyền công dân và quyền con người. Mới đây, ngày 05-02-2014, tại Genève Thụy Sĩ, nhân cuộc Kiểm điểm Định kỳ Toàn cầu lần thứ hai, phái đoàn cộng sản lại đưa ra trước thế giới một hình ảnh hết sức tích cực và sáng đẹp trên lý thuyết lẫn thực tế về tình hình nhân quyền tại Việt Nam.
Thế nhưng, ai cũng nhận thấy đó chỉ là bình phong để Hà Nội tiếp tục lấp liếm, che giấu những vi phạm nhân quyền ngày càng trầm trọng trên mặt luật lệ lẫn trên lối hành xử. Bản Hiến pháp, vừa được thông qua với sự mù quáng của đám gia nô đại biểu và trước sự phản đối của vô số người dân sáng suốt, đã quyết tâm đè bẹp các quyền công dân và quyền con người dưới đủ thứ độc quyền và ưu quyền của đảng, nên sẽ là căn cứ để đảng tiếp tục tung hoành lũng đoạn. Nguy hiểm nhất là nguyên tắc “đất đai tài nguyên… (đều) do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” (điều 53) và “ Nhà nước thu hồi đất… vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội” (điều 54). Nó đã tạo cớ cho hàng ngàn cuộc phản kháng đàn áp tước đoạt của nông dân trong máu và nước mắt, trong uất hận và tuyệt vọng, mà điển hình mới nhất trong tháng 3 là tại xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận ngày 27, tại xã Kỳ Lợi, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh ngày 29, trong tháng 4 là tại xã Bắc Sơn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh ngày mồng 10, tại xã Dương Nội quận Hà Đông, thành phố Hà Nội ngày 25, và trước tòa lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn ngày 29 trong tiếng la khản cổ: “Đả đảo đảng Cộng sản ăn cướp! Đả đảo đảng Cộng sản ăn cướp”!!!
Đặt ra “Ngày Luật pháp VN” nhưng nhà cầm quyền vẫn hành xử cách vô pháp luật tới độ trắng trợn qua vụ đàn áp khốc liệt tín đồ Hòa Hảo nhân lễ kỷ niệm vị Giáo chủ của họ thọ nạn ngày 21-03 tại tỉnh An Giang, huyện Chợ Mới; qua vụ phục kích tấn công rồi bắt giam bà Bùi Thị Minh Hằng cùng hai người bạn ngày 11-02 tại Lấp Vò, Đồng Tháp, để sẽ truy tố và vu khống tội lỗi cho họ; đặc biệt qua vụ Đại học Sư phạm Hà Nội ra các quyết định giữa tháng 3-2014, để không công nhận luận văn và thu hồi bằng Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn của bà Đỗ Thị Thoan, mà không cho tác giả, người hướng dẫn lẫn hội đồng chấm luận văn có cơ hội phản biện. Một vụ án Nhân văn Giai phẩm mới, với trò chính trị hóa văn học cách mù quáng và ngu xuẩn.
Ký công ước chống tra tấn, nhưng Hà Nội vẫn gây phẫn nộ cho toàn dân và thế giới qua phiên tòa ngày 3-4-2014 xử 5 sĩ quan công an thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên với các mức án từ 1 năm tù treo đến 5 năm tù ở về tội “dùng nhục hình” dẫn tới cái chết thương tâm của công dân Ngô Thanh Kiều, tiếp đến qua vụ công an huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng tra tấn đến chết thanh niên Đỗ Văn Bình rồi bày trò “bị can treo cổ tự tử” hôm 14-04. “Báo cáo Quốc gia về thực hiện quyền con người ở Việt Nam” trình bày hôm 05-02-2014 có viết về quyền tự do hội họp, lập hội ở số 35+36 như sau: “Quyền tự do lập hội, hội họp được quy định trong Hiến pháp (điều 69) và được pháp luật bảo vệ bằng nhiều văn bản luật và dưới luật... Hiện Việt Nam đang xây dựng các luật về lập hội, luật biểu tình… nhằm bảo đảm tốt hơn quyền tự do của người dân. Ở Việt Nam hiện có khoảng 460 hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp có phạm vi hoạt động toàn quốc, liên tỉnh, thành phố; 20 tổ chức công đoàn ngành; trên 36.000 tổ chức hội, hiệp hội, câu lạc bộ ở cấp địa phương, hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Thế nhưng, tất cả các tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức công đoàn hiệp hội trên đều do nhà nước thiết lập và điều khiển, nhằm mục đích kiểm soát công dân và bảo vệ chế độ độc tài. Trong thời gian gần đây, nhiều hội dân sự độc lập đã được hình thành, và công an đã lập tức ra tay để ngăn chận, hăm dọa buộc giải tán, với lý do nực cười là bất hợp pháp. Riêng với Hội Cựu Tù nhân Lương tâm thì thêm lý do: “quy tụ những kẻ từng vi phạm pháp luật”. Đây là một sự chụp mũ ngang ngược từng thấy xưa nay trong chế độ độc tài CS. Ngoài ra, đó còn là một quan niệm sai lạc, hoàn toàn đi ngược lại với nhận thức văn minh của thế giới và lương thức lành mạnh của con người. Nhà cầm quyền phải tập làm quen với việc xuất hiện các tổ chức dân sự trong xã hội, vốn cũng ích lợi và cần thiết như các tổ chức chính trị và tổ chức kinh tế trong một quốc gia. Hãy để cho các tổ chức dân sự này được hình thành tự do và hoạt động độc lập, có thể trở nên những đối tác và đối trọng với nhà nước, ngõ hầu họ góp phần xây dựng xã hội văn minh tiến bộ và góp phần ngăn chặn mối họa quyền lực độc tài. Chớ dùng nhân quyền như bình phong để tiếp tục trấn áp nhân dân và duy trì đất nước trong vô vàn tệ trạng và thảm nạn, khủng hoảng và nguy cơ như hiện nay.
Ban Biên Tập