Lê Công Định - Luôn tự nhắc nhở rằng hàng triệu gia đình đồng bào miền Nam từng mất tất cả vào ngày 30/4/1975, nên tôi nghĩ số phận mình cũng vậy, ngày 13/6/2009 quả thật là một biến cố “30 tháng 4” của gia đình tôi. Sáng thứ Bảy cuối tuần hôm đó, đến văn phòng muộn, tôi mở máy tính cá nhân, chuẩn bị viết lại bài phát biểu vào tháng trước tại buổi hội thảo của Câu Lạc Bộ Nguyễn Văn Bình do Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp chủ trì, vừa nâng ly cà phê espresso yêu thích lên định uống, thì một tốp nhân viên an ninh hùng hổ xông vào phòng, yêu cầu tôi đứng yên và đọc lệnh bắt tạm giam.
Trong đầu tôi liền vang lên ý nghĩ : “Điều phải đến đã đến rồi đây!” Thật ra, tôi đã đoán biết mình sẽ bị bắt, nhưng quyết định không lẩn tránh và chấp nhận vào tù. Trước khi anh Trần Huỳnh Duy Thức bị bắt vào ngày 24/5/2009, chúng tôi đã gặp nhau, anh Thức nói anh linh cảm ba chúng tôi sẽ bị bắt. Anh muốn tôi và anh Lê Thăng Long tránh đi để còn giúp đỡ nhiều người, nhưng tôi bảo tất cả chúng ta phải đi cùng nhau dù ở đâu, “không thành công cũng thành nhân”!
Thức cảm động xiết tay tôi, anh nhắc nhở nhiệm vụ của tôi với tư cách một luật sư là phải chứng minh rằng hệ thống pháp luật này chỉ bảo vệ sự lãnh đạo của một nhóm người thiểu số, nên người dân cần phải bất tuân để thay đổi sự bất công của nó. Từ biệt Thức, tôi ra về lòng nặng trĩu, không biết ngày mai sẽ ra sao và tôi có cơ hội chứng minh điều đó hay không. Vào ngày 4/6/2009, nhận tin đến lượt anh Long sau khi anh Thức đã bị bắt, tôi biết ngày tự do của mình không còn bao lâu.
Sau khi đọc lệnh bắt giam, các nhân viên an ninh lập tức kiểm tra máy tính cá nhân của tôi. Họ mừng rỡ phát hiện bản “Tân Hiến Pháp” vì có lẽ đó là bằng chứng sáng giá nhất của một “kế hoạch lật đổ nhà nước CHXNCN Việt Nam”. Tôi thoáng nghĩ ngay đến sự nguy hiểm của tài liệu này, vì không biết họ sẽ suy diễn trong tưởng tượng đến đâu. Thật ra, nguồn gốc của tập bản thảo bỗng chốc trở nên danh tiếng đó lại hết sức giản dị, bởi đấy chỉ đơn thuần là công trình học thuật cá nhân của tôi mà thôi, không một mưu tính chính trị nào ẩn giấu bên trong, như đã được cơ quan an ninh và hệ thống truyền thông nhà nước thổi phồng.
Xin dông dài đôi chút về quá khứ học hành của tôi. Năm 1989 tôi tốt nghiệp Trường Đại Học Pháp Lý Hà Nội (chi nhánh TPHCM), tiền thân của Trường Đại Học Luật TPHCM bây giờ. Tiếng là một cử nhân luật, vừa 21 tuổi đời, nhưng khi đọc các chứng thư công chứng của Phòng Chưởng Khế Sài Gòn trước 1975 và đọc hai bản Hiến Pháp của nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa từ 1955 đến 1975 tại miền Nam Việt Nam, tôi chỉ đủ sức hiểu một cách mơ hồ, nếu không muốn nói là chẳng hiểu gì cả. Tôi nhận ra trường luật XHCN đã trang bị cho sinh viên kiến thức và phương pháp nghiên cứu nhầm lẫn. Từ đó, tôi dành nhiều thời gian và công sức tự ép mình vào một quá trình tự đào luyện lại môn luật học theo hệ thống phương Tây.
Đối với thư tịch tiếng Việt, trong nhiều năm trời tôi tìm đọc tất cả các sách và tạp chí về luật do Trường Đại Học Luật Khoa Sài Gòn và các định chế tư pháp của Việt Nam Cộng Hòa xuất bản. Tôi cũng trau dồi vốn tiếng Pháp và tiếng Anh để đọc các sách luật in ở nước ngoài. Bắt chước cụ Nguyễn Hiến Lê, để tổng kết kiến thức tự đào luyện của mình, tôi quyết định viết xuống những gì học được. Tuy nhiên, thay vì viết sách như cụ Nguyễn, tôi bắt tay soạn thảo các bộ luật quan trọng nhất của một quốc gia, đó là các bản Tân Hiến Pháp, Tân Dân Luật, Tân Thương Luật và Tân Dân Sự Tố Tụng, theo tên gọi của tôi. Cùng với các bộ luật, tôi viết sách chú giải nội dung và trình bày lý do vì sao từng điều luật được soạn thảo theo hướng này, mà không phải hướng khác, tất cả là 4 quyển sách.
Do kiến thức và kinh nghiệm của tôi được bồi đắp thêm nhiều từ việc học hành và làm việc hằng ngày, nên theo thời gian tôi đã liên tục sửa chữa bản thảo của 4 bộ luật và 4 quyển sách ấy. Công việc cần mẫn lặng lẽ như vậy được tiến hành trong 20 năm, từ 1989 đến 2009, nhưng tôi vẫn chưa ưng ý về bản thảo cuối cùng, một phần vì tính cầu toàn của tôi từ nhỏ, một phần vì vẫn định bụng sẽ có ngày mang ra nhờ giới học thuật chuyên môn phê bình và bổ túc.
Đến lúc bị bắt, trong máy tính cá nhân của tôi vẫn còn lưu trữ bản thảo của 4 bộ luật và 4 quyển sách dang dở ấy. Tuy nhiên, đối với cơ quan an ninh, chỉ bản “Tân Hiến Pháp” mới có giá trị của một “kế hoạch lật đổ” nên họ chỉ in ra bản thảo này và buộc tôi ký tên xác nhận. Tôi đã yêu cầu được chép lại nội dung của các tài liệu không liên quan đến vụ án, vì đó là những tài liệu riêng của tôi, song họ bác bỏ với sự so sánh buồn cười như sau: một căn nhà dùng làm địa điểm hành nghề mại dâm, thì khi bị niêm phong, các đồ đạc bên trong, cùng với cái giường, cũng phải bị tịch thu (!?). Tất nhiên, cuối cùng tôi đành thúc thủ trước lập luận trí tuệ như vậy và ... nhớ hoài. Bây giờ ngẫm nghĩ vẫn tiếc công sức của 20 năm tràn đầy nhiệt huyết dành cho một nền luật pháp trong mơ mà không sao làm lại được.
Tháng 8/2009 bản “Tân Hiến Pháp” bị mang đi giám định cùng với các tài liệu khác của tôi. Biên bản kết luận “giám định văn hóa” nhận định đại ý như sau: nội dung của bản “Tân Hiến Pháp” thuần túy có tính chất học thuật với các quan điểm pháp lý thường thấy ở các nền pháp luật phương Tây, tuy nhiên do tài liệu này được một nhà chính trị như Lê Công Định sử dụng, nên mưu đồ và tác hại về mặt chính trị cần phải được các cơ quan an ninh xem xét và xử lý. Xin miễn bình luận về cái gọi là “giám định” đó.
Tương tự, quyển sách “Con đường Việt Nam” thực ra chỉ mới được phác họa trong suy nghĩ của anh Thức, rồi nhân gặp tôi và anh Nguyễn Sĩ Bình, được mang ra bàn luận để xem ai có thể đóng góp gì thêm giúp nó phong phú hơn. Chúng tôi dự định rằng quyển sách đó chỉ mang tính chất nghiên cứu và đề xuất những giải pháp xử lý khủng hoảng kinh tế-xã hội để chính phủ tham khảo, và vì thế sẽ chỉ xuất bản trong nước. Đến khi chúng tôi bị bắt, một chữ của quyển sách cũng chưa được viết xuống, nhưng cơ quan an ninh đã vội vã suy diễn và thổi phồng lên thành một “kế hoạch lật đổ”, như thể nó đã được viết và in ra trong một âm mưu chính trị xấu xa và đang được thi hành trên thực tế thì bị các chiến sĩ an ninh với nghiệp vụ điều tra tài tình phát hiện.
Tất nhiên, trong các buổi làm việc ban đầu, tôi đã bác bỏ sự gán ghép và suy diễn của điều tra viên theo hướng “suy đoán có tội”, thay vì “suy đoán vô tội”, đối với bản “Tân Hiến Pháp” và ý tưởng về quyển sách “Con đường Việt Nam”. Sau đó, khi nhận ra sự cố tình lý sự cùn, tôi quyết định không tranh cãi nữa, để họ mặc sức áp đặt và dựng lên một câu chuyện hài hước như những gì đã diễn ra, vì tôi biết rõ sẽ đến một ngày chúng tôi phải nói ra sự thật với bằng chứng còn đó trên giấy trắng mực đen về sự gán ghép và suy diễn vụng về như vậy.
Sau khi khám xét hai văn phòng làm việc và nhà riêng của tôi, đoàn xe dài đưa tôi về trại tạm giam B34 trên đường Nguyễn Văn Cừ lúc 9 giờ tối thứ Bảy. Ngoài đường, phố xá vẫn tấp nập dòng người đi chơi đêm cuối tuần. Sài Gòn vẫn lung linh ánh đèn như tự bao giờ, nhưng với tôi cuộc đời đã lật sang một trang mới. Lúc xuống xe đi vào khu buồng giam, nhớ lời Thiền sư Thích Nhất Hạnh, tôi đi chậm rãi, ý thức từng bước chân, giữ nhịp thở sâu, đều đặn, dù toàn thân đã rã rời.
Cả ngày chưa ăn, tôi xin nước uống. Các điều tra viên mang một hộp cơm thịt kho đến đưa tôi ăn, nhưng tôi lắc đầu từ chối. Các anh lại mang ra một hộp sữa mời tôi uống thay cơm, tôi cũng từ chối. Tâm trạng ngổn ngang nhiều ý nghĩ đã cản trở tôi nuốt trôi bất cứ thứ gì lúc đó. Ngay đêm ấy người ta tiến hành buổi thẩm vấn đầu tiên, kéo dài đến sau 12 giờ khuya. Vào buồng giam tôi được phát một manh chiếu, tấm mùng và chiếc gối, tất cả đều dơ bẩn, mà tôi chẳng buồn quan tâm. Loay hoay tìm cách giăng mùng, vì không một dụng cụ và dây treo tường nào được cho phép trong buồng giam, nên đến gần 3 giờ sáng tôi mới ngả lưng, nhưng trằn trọc mãi đến tận sáng hôm sau. Quả là “ngày dài nhất” trong cuộc đời ngắn ngủi!
Nằm vắt tay lên trán suy nghĩ, bỗng nhớ lời ba tôi dặn lúc sinh thời. Ông thường nói câu “anh hùng vị quốc vong thân” thời nay không còn đúng nữa, người tài phải biết sử dụng tài năng cho dân, cho nước, vì vậy phải biết quý trọng và gìn giữ tấm thân mình. Trong tôi như bừng lên ngọn lửa soi đường, giúp tôi đối phó hữu hiệu vụ án hung hiểm này trong nhiều tháng năm sau đấy. Thế là ngay ở đêm đầu tiên tôi đã làm bài thơ thứ nhất trong tù, như sau:
Chết là hết, tang bồng nhẹ gánh,
Khỏi sống nhìn hệ thống phi nhân.
Song cha dặn người còn, nước giữ,
Bậc anh tài vị quốc lưu thân.
Rồi nghĩ về gia đình. Sự chia tay đầy nước mắt của vợ tôi lúc chiều tối, khiến tôi đau đớn. Ý nghĩ rằng chính mình đã phá hỏng tương lai của vợ, khiến lòng càng thêm dằn vặt khôn tả. Và bài thơ thứ hai đã ra đời lúc gà gáy sáng:
Dấn thân giúp nước chưa tròn nợ,
Chuốc họa vô thân, vợ chẳng nhờ.
Kẻ ở người đi muôn cách trở,