Từ nghi vấn, lập luận, đến kết luận Đồng là gián điệp Tàu
Sau khi nghiên cứu kỹ (trong điều kiện “minh bạch thông tin” hiện nay của CSVN) tiểu sử, hành tung, tính cách của bộ ba đệ tử ruột của Hồ là Đồng-Chinh-Giáp thì tôi đã đi đến nghi vấn và kết luận tạm về Đồng, rằng Đồng cũng như Hồ, đã được tình báo Hoa Nam thay bằng một người Tàu từ khoảng 1940, khi Đồng ra tù và sang Quảng Châu lúc đó, đội lốt một người Tàu tên Lâm Bá Kiệt. Sau đó Kiệt (vai Đồng) cùng Hồ về nước đầu 1941... lập nên cặp bài trùng gián điệp Tàu có một không hai trong lịch sử gián điệp thế giới (vì gián điệp nhưng chiếm đến ngôi số 1 và số 3 của đối thủ trong suốt hơn 30 năm sau đó đến chết không bị “phát hiện”)!
Tôi đã đưa ra nghi vấn, lập luận và kết luận cá nhân đó trong một số bài viết của mình, mà một trong những bằng chứng/cơ sở lập luận gián tiếp là sau khi đi TQ về cùng Hồ năm 1941, Đồng không về Hà Nội thăm ân nhân là cơ sở cũ mà ở lại biên giới Việt-Trung cùng Hồ đến tận 1945, năm 1946 Đồng mới về Hà Nội lấy vợ trẻ rồi đi ngay vào Liên khu V theo lệnh của Hồ (làm đặc phái viên CP), để cô vợ trẻ phải lặn lội từ Hà Nội vào trong khu V tìm chồng nhưng chưa kịp tìm thấy chồng thì đã bị điên không nhận ra chồng nữa. Từ đó Đồng sống cách biệt một mình, chỉ thỉnh thoảng đến thăm vợ điên trong suốt mấy chục năm sau đó... Có gì đó rất không bình thường giữa Đồng và gia đình vợ và vợ vốn là ân nhân của Đồng trước 1940? Có người nói, Đồng là người Tàu, đã có vợ con Tàu, năm 1946 lấy vợ HN là theo nhiệm vụ làm vỏ bọc mà thôi. Và vì người vợ trẻ có thể đã phát hiện ra Đồng từ Từ Tàu về lại thành người Tàu thật nên cô phải bị điên? Điều này cũng dễ kiểm tra, nếu đem thử AND của con trai Đồng là tướng Phạm Sơn Dương hiện nay với họ hàng Đồng “thật” gốc ở Quảng Ngãi, nếu không khớp là rõ ngay Đồng là Tàu...
Cơ sở lập luận thứ hai là chúng ta thấy Đồng sống và làm việc rất khép kín, kín tiếng như một cái bóng của Hồ, ngay cạnh Hồ, là phụ tá thực sự duy nhất của Hồ, khác hẳn Đồng những năm 1930-40 là của phong trào đấu tranh. Đồng lên rất nhanh, thần kỳ hơn cả Giáp và hàng trăm ủy viên TƯ CSVN khác thời kỳ 1945-1955. Năm 1940 Đồng mới vào đảng CSĐD cùng Giáp, năm 1947 mới là TƯ ủy viên dự khuyết mà 1945 (chưa là gì) đã là Bộ trưởng Tài chính rồi thay Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam đi Pháp, năm 1949 đã là Phó Thủ tướng thứ nhất chỉ sau Hồ, và năm 1951 đã vào Bộ Chính trị cùng Giáp, năm 1955 đã là thủ tướng VNDCCH sau chuyến đi Geneve chia cắt đất nước năm 1954… Rất nhanh chóng, Đồng lên cao tột đỉnh không còn chỗ để lên nữa vì còn Hồ, Chinh, Duẩn. Rồi Đồng rất yên phận giữ chức Thủ tướng 32 năm, không bon chen kèn cựa như trước nữa, và không kỷ luật ai suốt 32 năm, và cũng không có một thành tích nào nổi bật. Dường như Đồng chiếm chỗ thủ tướng chỉ để không cho người khác ngồi, vì có mục đích gì đó cao hơn làm thủ tướng CP VNDCCH nhiều? Làm thủ tướng VNDCCH với Đồng dường như chỉ là một phương tiện phải có thật nhanh để dùng nó (như vỏ bọc thôi) cho sứ mệnh cuộc đời Đồng…? Sứ mệnh ấy là gì? Phục vụ cố quốc Tàu!
Cơ sở lập luận thứ ba là công hàm Đồng ký bán Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu ngay trong năm 1958 khi vừa yên vị thủ tướng. Nó sặc mùi Tàu về cả nội dung và văn phong bán nước Việt ngấm ngầm cho Tàu mà người Việt không thể chấp nhận, cũng như cách nó được Đồng viết và ký rất kín đáo (mà có lẽ không qua tay một thư ký hay cố vấn Việt nào trong VPCP của Đồng, và vì thế sẽ không có hồ sơ lưu kiểu như ai ra lệnh, ai chấp bút, ai kiểm tra để Đồng ký rồi lưu ở đâu, để mãi mấy chục năm sau chính Tàu cộng công bố ra để cướp biển đảo VN thì dân mới biết…?). Lẽ ra, công hàm đó dù là Đồng ký thì phải xuất phát từ đề nghị và dự thảo của Bộ Ngoại giao vốn có chức năng làm việc đó? Về nội dung công hàm đó thì đến 1958 Đồng đã kịp là “sư tổ” trước đó đã hai lần bán nước Việt cho Pháp năm 1946 ở Hội nghị Fontainebleau và năm 1954 ở Hội nghi Geneve chia cắt đất nước Việt rồi. Có lẽ trước khi vào Việt Nam năm 1941 Đồng đã được tình báo Hoa Nam đào tạo thành gián điệp ngoại giao quốc tế loại thặng thừa nên năm 1946 Hồ đã cử ngay Đồng đi Pháp, và năm 1954 lại đi Geneve, hầu như toàn quyền (lần sau ở Geneve thì Đồng đã có sếp Chu Ân Lai bên cạnh nên Hồ khỏi lo)… Và cơ sơ lập chính thứ tư và cuối cùng của tôi là việc Đồng rất vô cớ đã về hưu 3 năm từ 1987 rồi lại được vời ra đi dự Hội nghị Bán nước ở Thành Đô, lúc đó đã 81 tuổi và còn không phải Cố vấn Ban CHTU đảng gì cả (mãi tháng 6/1991, ở ĐH 7 của đảng CSVN, Đồng mới cùng Linh lên cố vấn). Ở Hội Nghị Thành Đô, Đồng có nhiệm vụ gì?
Suốt cuộc đời và sự nghiệp “vẻ vang phục vụ” đất nước trên đỉnh cao quyền lực suốt hơn 60 năm của Đồng (từ 1940 đến 2000), Đồng chỉ làm 4 việc nổi bất đều là 4 việc bán nước Việt hại dân Việt, đó là: rước Pháp vào lại VN năm 1946, chia cắt đất nước năm 1954, bán biển đảo VN cho tàu cộng năm 1958 và bán cả tương lai dân tộc cho Tàu năm 1990 ở Thành Đô… đó là gấp trên 4 lần tội trạng của những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống rồi, người Việt không thể kiên trì làm được như thế!
Nếu là người Việt, chỉ một vụ ký công hàm 1958 của Đồng đủ làm bất kỳ ai cũng phải ân hận, ăn năn và tự vấn lương tâm mà chết trong nhục nhã. Đằng này Đồng không thế, Đồng đã ký ba công hàm loại bán nước như thế (1946-Fontainebleau, 1954-Geneve và 1958-Hoàng Sa/Trường Sa) và còn vênh vang làm thủ tướng suốt 32 năm mới chịu về hưu mà không có một thành tích kinh tế nào ngoài công trạng đưa đất nước trở lại thời kỳ đồ đá! Và về hưu mấy năm rồi còn mò ra tháp tùng đàn em đi Hội nghị Thành Đô làm gì ở tuổi 84? (Tôi rất nghi rằng Hoa Nam phải có nhiều diễn viên trẻ để đóng vai Đồng chứ không thì một người 84 tuổi như Đồng làm sao minh mẫn làm việc phục vụ Trung cộng được?!)
Một sự nghiệp 32 năm làm thủ tướng với bất kỳ người Việt nào cũng là quá đủ để không thèm bon chen, nhất là năm 1990 đen tối, có thể để lại trách nhiệm khó khăn cho đàn em chúng nó gánh vác và chịu tội, còn mình giữ danh thơm?! Nhưng với Đồng là chưa đủ, dường như Đồng có sự nghiệp khác, và Đồng chưa hoàn thành sứ mệnh đó, nên vẫn phải cố theo ốp Linh, Mười đi bán nước ở Thành Đô mới xong. Và đó chỉ có thể là sự nghiệp cướp nước Việt cho người Tàu – sự nghiệp gián điệp Tàu! Và kẻ về Thành Đô có thể là Đồng Tàu thứ mấy chứ không phải đầu tiên?! Đồng Tàu “cuối cùng” chết năm 2000 thọ 94 tuổi trong khi cả thời trẻ Đồng thật rất nghèo khó và tù tội Côn Đảo… cũng là bằng chứng của sự gian trá (để kéo dài quyền kiểm soát ghế Thủ tướng VN mà thôi). Tôi tin CSVN sẽ chẳng còn hô sơ lưu trữ gì về tình trạng sức khỏe, bệnh tật của nhưng diễn viên Tàu đã tiếp nhau sang thủ vai Đồng suốt 60 năm đó...
Từ cuộc sống cá nhân gia đình Việt trên danh nghĩa của Đồng cũng có thể tìm ra vài cơ sở để nghi vấn và lập luận rằng Đồng là người Tàu, nhưng là các cơ sở lập luận phụ thôi.
Ví dụ, năm 1987, khi về hưu, Đồng được Bộ chính trị đề nghị và phân công viết hồi ký cuộc đời “cách mạng vinh quang” của mình vì là “học trò xuất sắc nhất” của Hồ, nhưng Đồng đã lập tức và dứt khoát từ chối “nhiệm vụ được phân công” đó? Tại sao? Vì có nhiều diễn viên Đồng khác nhau, thằng Đồng cuối nói sao khớp được hết với những thằng Đồng đầu? Vì Hoa Nam chưa nặn ra Trần Dân Đồng em Trần Dân Tiên và chưa kể “Những mẩu chuyện về đời lộn xộn của Đồng” như của Hồ để Đồng nhập vai T.Lan Man và từ đó viết ra “Vừa đi Tàu vừa kể chuyện Đồng” trên báo Nhân dân?
Hay ví dụ, Đồng có hai cháu nội duy nhất (trên danh nghĩa) là con của Phạm Sơn Dương và Đồng giành quyền đặt tên hai cháu là Quốc Hoa, Quốc Hương, rồi giải thích đó là hương hoa đất nước, nhưng ai dám bảo đó không có nghĩa là Đồng muốn ghi tạc nguồn gốc Đất nước Trung Hoa, và Quê hương Trung quốc của mình bằng hai sinh linh vô tội đó?!
Nhưng tôi khoái nhất vẫn là những bức ảnh Đồng đứng “bụm chim” (hai tay che trước bộ hạ như cầu thủ bóng đá đứng che bóng sắp bị đá phạt trong vòng cấm địa) trước Giang và Lý ở Thành Đô… Tư thế đó của Đồng nói lên điều gì? Các nhà tâm lý học trường phái Freud sẽ đọc vị Đồng rằng, đó là vì thân thế thật của Đồng Tàu “thứ chót” đó là rất thấp kém so với Giang và Lý trên tột đỉnh nước Tàu CS - chỉ là một nhân viên tình báo Tàu quèn, nên Đồng khúm núm bụm chim, muốn cam kết trước các ông chủ của mình rằng Đồng đang làm đúng, làm tốt nhiệm vụ và Đồng sẵn sàng hi sinh thân mình cho cam kết đó. Bởi vì, các ông chủ Tàu của Đồng có vẻ hoài nghi khả năng của Đồng “chót” và kết quả như mơ và dễ dàng ở Thành Đô từ hai kẻ khùng điên ngoài 70 tuổi là Linh-Mười kia, có thực là họ cam kết bán nước đơn giản vậy không? Lịch sử mấy nghìn năm thèm thuồng nước Việt của tộc Hán chưa bao giờ có cơ hội cướp nước Việt dễ dàng như thế?! Và (nhóm) kẻ Hán gian từng (thay nhau) đứng đầu chính phủ Việt – Tể tướng Việt suốt 32 năm cam kết: cướp được. Đây lã là lần thứ tư (nhóm) Đồng Tàu bán nước Việt rồi, lần này thì chúng muốn ôm trọn vẹn VN về cho cố quốc Tàu của chúng…
Và thú nhận của Lý Bằng - Thủ tướng Trung cộng về Đồng Tầu
Chúng ta hãy xem lại phần trích từ bài của ông Huỳnh Tâm dịch lại “Nhật ký ngoại sự” của Lý, mới đăng mấy hôm nay trên Dân Làm Báo (cảm ơn ông Huỳnh Tâm và Dân Làm Báo!):
Trích:
“Bài này trích trong cuốn "Nhật ký ngoại sự" và "Hòa bình phát triển hợp tác" của tác giả Lý Bằng. NXB Tân Hoa xã xuất bản. Nguồn: people.com.cn. [1]
Hàng trước từ trái sang: 1) Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư. (3) Phạm Văn Đồng, (4) Nguyễn Văn Linh (bên phải Giang Trạch Dân), (5) Giang Trạch Dân (áo xám đứng giữa), (6) Lý Bằng, (7) Đỗ Mười, (9) Hồng Hà (bìa phải) và Đinh Nho Liêm. Ảnh chụp tại Kim Ngưu tân quán Thành Đô Tứ Xuyên (成都宾馆金牛)
Hội nghị vừa kết thúc, nhật báo Tứ Xuyên loan tải một thông điệp của phái đoàn Việt Nam: "Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên và cho Việt Nam thời gian 30 năm để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc!" [2]
Lý Bằng "Nhật ký ngoại sự" (外事日记). Về hình thức ghi lại quá trình bình thường hóa quan hệ Trung-Việt như sau:
Cuối những năm 1970. Việt Nam đưa quân sang Campuchia. Năm 1979, quan hệ Trung-Việt đụng đáy hết thuốc chữa. Tháng 12 năm 1986, thời đó Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đương quyền, tình hình quốc tế thay đổi, đặc biệt là ở Đông Âu, Liên Xô bị tan rã. Nguyễn Văn Linh tìm kiếm chính sách, điều chỉnh lại bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc-Việt Nam.
Sau khi hai bên Trung-Việt thông qua đường liên lạc, đồng ý hội nghị bí mật vào ngày 03 - 04 tháng 9 năm 1990. Nguyễn Văn Linh và Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười chấp nhận đàm phán với các nhà lãnh đạo Trung Quốc tại Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên.
Thứ Sáu, ngày 26 tháng 12 năm 1986. Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời vào tháng 7. Nguyễn Văn Linh được đắc cử Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, tại Đại hội 6 đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ Bảy, ngày 26 tháng 8.
Hôm nay, Việt Nam tuyên bố rằng "Rút toàn bộ quân đội của Việt Nam ra khỏi Campuchia". Lần này, tạo ra các điều kiện để giải quyết "trơn tru" cho mọi thuận lợi của vấn đề Campuchia, đồng thời làm "sạch" các chướng ngại bình thường hóa quan hệ Trung-Việt.
Thứ Tư, ngày 6 tháng 6.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, hẹn gặp Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy (Zhang Dewei) [3] tại Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn (Văn Linh), hy vọng cho một lần đầu, thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, hai đảng, đồng thời mong sớm được đàm phán tại Trung Quốc.
Chủ Nhật, ngày 26 tháng 8.
Giới thiệu chuyến viếng thăm nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam tại Trung Quốc, gồm Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh mục đích giải tỏa những vấn đề hai nước, hai đảng..., tôi đã nói với đồng chí Giang Trạch Dân, ông cho biết hoàn toàn tán thành.
Thứ Hai, ngày 27 tháng 8.
Về đồng chí Giang Trạch Dân và tôi sẽ hội kiến với Nguyễn Văn Linh theo những dự thảo liên quan, tôi đã báo cáo lên đồng chí Đặng Tiểu Bình. Theo quan điểm của Thế vận hội Châu Á (Asian Games), sắp tới tổ chức tại Bắc Kinh, nhưng cuộc họp này liên quan đến việc bình thường hóa quan hệ song phương Trung-Việt, đặc biệt hệ trọng, nên để tiện cho việc bảo mật, địa điểm hội đàm sẽ được bố trí ở Thành Đô.
Thứ Năm, ngày 30 tháng 8.
Đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đã đi đến Thành Đô để đàm phán nội bộ với Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười, đã có ban hành lời mời phía Việt Nam. Bây giờ thử xem Việt Nam trả lời thế nào.
Chủ Nhật, ngày 02 tháng 9.
15 giờ 30, tôi lên chiếc máy bay chuyên cơ, cất cánh từ vùng ngoại ô sân bay Tây Giao Bắc Kinh, khoảng 6 giờ 00 đến sân bay Thành Đô. Chúng tôi di chuyển bằng ô-tô qua lộ trình mất hơn 20 phút đến Kim Ngưu tân quán (宾馆金牛), Bí thư Tỉnh ủy Dương Nhữ Đại đang chờ đợi. Đồng chí Giang Trạch Dân đáp một chiếc bay chuyên cơ đến Thành Đô chậm hơn tôi nửa giờ sau, tôi đến Thành Đô. 08 giờ 30 tối. Đến 11 giờ đêm, tôi cùng đồng chí Giang Trạch Dân trao đổi chính sách cho cuộc đàm phán với phía Việt Nam vào ngày mai.
Thành Đô thứ Hai, ngày 03 tháng 9.
Buổi sáng, tôi đến chỗ đồng chí Giang Trạch Dân tiếp tục nghiên cứu các nguyên tắc tiến hành đàm phán với phía Việt Nam.
Khoảng 14 giờ 00, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng cùng đến Kim Ngưu tân quán Thành Đô (成都宾馆金牛) [4]. Giang Trạch Dân và tôi chào đón họ tại tầng lầu 1. Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, mặc veston cà phê, phong thái học giả. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười mái tóc bạc trắng cũng có thái độ mạnh mẽ, mặc veston màu xanh. Họ là những người trên bảy mươi tuổi, và Phạm Văn Đồng thị giác mắt nheo đục, mặc veston đại cán phù hợp với màu xanh, ông cũng là cựu chiến binh Trung Quốc.
Kim Ngưu tân quán Thành Đô Tứ Xuyên (成都宾馆金牛)
Buổi chiều, cuộc đàm phán bắt đầu, Nguyễn Văn Linh lần đầu tiên thực hiện một bài phát biểu dài. Mục đích mong muốn bày tỏ giải quyết các vấn đề Campuchia càng sớm càng tốt, đồng thời đàm phán việc thành lập Hội đồng tối cao của Campuchia là một phần ưu tiên, không nên loại trừ bất kỳ bên nào, không thể bày tỏ sự miễn cưỡng để can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia. Xem ra về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh có vẻ chỉ muốn bày tỏ thái độ tuyên bố về nguyên tắc, trọng điểm là đặt vào phương diện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt. Cuộc đàm phán tiếp tục cho đến 8 giờ 00, sau 08 giờ 30 mới bắt đầu mở tiệc buổi tối. Bên bàn tiệc, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân lần lượt làm việc với Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh?
Thứ Ba, ngày 04 tháng 9.
Buổi sáng, chúng tôi tiếp tục họp với các nhà lãnh đạo của Việt Nam. Tại thời điểm này, có thể nói những vấn đề nêu ra trong đàm phán đã đi đến sự đồng thuận một cách khá thỏa đáng, cùng quyết định soạn thảo một bản "Kỷ yếu hội nghị".
14 giờ 30, trong hai bên Trung-Việt tổ chức một buổi lễ ký kết tại khách sạn trên tầng số 1 Nhà khách Kim Ngưu, hai bên lần lượt đồng ký do Tổng bí thư và Thủ tướng Chính phủ tương ứng. Đây là một bước ngoặc lịch sử trong quan hệ Trung-Việt. Đồng chí Giang Trạch Dân đọc câu thơ của Lỗ Tấn "Phong ba đã trôi, mỗi tình anh em vẫn còn, gặp nhau lại vui, bỏ qua hết thẩy hận thù" (Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu). Tặng cho các đồng chí Việt Nam. Về vấn đề này, các đồng chí Việt Nam tỏ ra hài lòng.
16:00, chuyên cơ cất cánh về Bắc Kinh, khoảng 6 giờ 10 như vậy đã đến nơi.
Thứ Bảy, ngày 29 tháng 6 năm 1991.
Đại hội 7 Đảng cộng sản Việt Nam bế mạc, Đỗ Mười được đắc cử Tổng bí thư, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng làm cố vấn. Những giai điệu tổng thể của Đại hội 7, Đảng cộng sản Việt Nam, nhấn mạnh kiên trì giáo lý chủ nghĩa xã hội, tham gia vào các cải cách kinh tế, chủ trương tình hữu nghị Việt-Xô, Việt-Trung. Tinh thần của Đại hội 7 có lợi cho việc cải thiện quan hệ song phương Trung-Việt.”
Hết trích
Thấy gì về Đồng qua Nhật ký Thành đô của Lý
Chúng ta thấy mấy điều về Đồng được vô tình lộ ra, như vai trò của Đồng, gốc gác của Đồng...
Về gốc gác của Đồng, ở phần nhật ký đón Linh, Mười, Đồng sang ngày 3/9/1990 Lý Bằng viết:
“...Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, mặc veston cà phê, phong thái học giả. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười mái tóc bạc trắng cũng có thái độ mạnh mẽ, mặc veston màu xanh. Họ là những người trên bảy mươi tuổi, và Phạm Văn Đồng thị giác mắt nheo đục, mặc veston đại cán phù hợp với màu xanh, ông cũng là cựu chiến binh Trung Quốc.”
Không biết ông Huỳnh Tâm có dịch sai không phần cuối câu trên: “...ông cũng là cựu chiến binh Trung Quốc”? Vì như thế chúng ta hiểu là Đồng là người Tàu, từng là cựu binh Trung cộng!
Nếu ông Huỳnh Tâm đã dịch đúng câu này trong nhật ký của Lý về Thành Đô, thì điều đó xác nhận chính thức những nghi vấn, lập luận, kết luận của tôi rằng Đồng từ 1940 là người Tàu, là đúng. Nhưng tôi nghĩ ông Huỳnh Tâm đã nhầm. Có người dịch là: “...trông ông như một cựu binh Trung quốc”, có người lại dịch là: “trông ông như một lão nông Trung quốc”... Nếu ông Huỳnh Tâm có nhầm, thì tôi cũng chưa chắc đã sai!
Tư thế của Đồng ở Thành Đô luôn khúm núm đứng “bụm chim” dù là đứng chụp hình chính thức hay đứng nói chuyện bên lề Hội nghị, là tư thế của kẻ đầy tớ cấp dưới đứng trước thượng cấp của mình là TBT và TTg Trung cộng. Lẽ ra Đồng phải có hai lý do để có tư thế cấp cao hơn Giang và Lý, đó là Đồng từng là Thủ tướng VN những 32 năm cũng thời thủ tướng Chu của Tàu, và Đồng cũng là người cao tuổi nhất ở Thành Đô, lúc đó trên giấy tờ thì Đồng đã 84 tuổi? Trong khi đó, tại sao Lý chỉ nhấn mạnh việc Mười và Linh là những người già trên 70 tuổi? Có phải vì Lý biết Đồng chỉ là diễn viên đóng thế có tuổi thực ít hơn 84 nhiều nên không nói đến tuổi của Đồng?
Như vậy, chúng ta thấy vai trò, tư thế của Đồng là như kẻ tay sai, không phải cố vấn, và (vì) Đồng là người Tàu của Tàu và Tàu biết rõ...
Hội nghị Thành Đô đã được thỏa thuận ở Lầu Xanh?
Chúng ta thấy từ đoạn trích trên, sáng ngày 3/9 Lý còn mới gặp và bàn bạc với Giang về các nguyên tắc đàm phán (chưa phải nội dung đàm phán) với Việt Nam (trong các cuộc đàm phán hai bên bao giờ cũng phải thỏa thuận nguyên tắc đàm phán trước, rồi mới “cò cưa” nội dung sau):
“Thành Đô thứ Hai, ngày 03 tháng 9.
Buổi sáng, tôi đến chỗ đồng chí Giang Trạch Dân tiếp tục nghiên cứu các nguyên tắc tiến hành đàm phán với phía Việt Nam.”
Và phía Việt Nam buổi chiều 3/9 cũng mới đưa ra quan điểm thăm dò về nội dung, mà Lý đoán biết đâu là mong muốn chính (cải thiện quan hệ với TQ) và đâu là phụ có thể nhường (vấn đề Campuchia):
“Buổi chiều (ngày 3/9), cuộc đàm phán bắt đầu, Nguyễn Văn Linh lần đầu tiên thực hiện một bài phát biểu dài. Mục đích mong muốn bày tỏ giải quyết các vấn đề Campuchia càng sớm càng tốt, đồng thời đàm phán việc thành lập Hội đồng tối cao của Campuchia là một phần ưu tiên, không nên loại trừ bất kỳ bên nào, không thể bày tỏ sự miễn cưỡng để can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia. Xem ra về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh có vẻ chỉ muốn bày tỏ thái độ tuyên bố về nguyên tắc, trọng điểm là đặt vào phương diện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt.”
Như vậy, chiều 3/9 từ sau 14h30 (đến 8h tối), hai bên mới bắt đầu đàm phán, và hai bên chỉ mới thỏa thuận nguyên tắc, thăm dò thái độ, mở lời và đoán ý nhau (về nội dung). Phần mở đầu đàm phán này hết 5 tiếng rưỡi. Thế mà, buổi tối 3/9, sau 8h30’ họ đã mở tiệc tối:
“...sau 08 giờ 30 mới bắt đầu mở tiệc buổi tối. Bên bàn tiệc, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân lần lượt làm việc với Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh”
Hóa ra là chúng “làm việc” trên bàn tiệc. Buổi tối chúng ta không thấy Lý nói đến Đồng. Đồng có dự tiệc tối hay tham gia một bàn đàm phán thực sự khác sau lưng Linh/Mười để soạn thảo nội dung văn bản thỏa thuận, vì buổi chiều hai bên mới mào đầu và đoán ý nhau? (Và chúng ta nhớ Đồng là chuyên gia ngoại giao thượng thừa đã soan thảo 3 văn kiện bán nước Việt trước rồi...).
Nhưng điều đặc biệt mà Lý để lộ ra ở câu trên là tối 3/9/1990 bọn Tàu (Lý và Giang) đã cùng nhau lần lượt làm việc với Mười và Linh, tức là chúng làm việc riêng với tên hoạn lợn điên (lợn không điên) là Mười (chúng kết bạn bằng rượu Mao Đài và gái Tàu non, hứa hẹn chức TBT, dọa nạt chút bằng cái thóp về kẻ điên ngu mà chúng biết, lại mua chuộc bằng gái, rượu và nhiều tiền, cam kết chắc thắng và có nhiều ủng hộ khác rồi, dọa nếu không theo thì có kẻ khác sẽ làm TBT... Mười vội lạy “tôi cắn cỏ cam đoan thề tự thiến tỏ trung” ), rồi lại làm việc riêng với kẻ hoang tưởng Linh (dụ khị, nịnh bốc, thổi đu đủ “chiến sĩ công sản quốc tế” Linh còn hơn Đặng và ngang Hồ, ngang Mao, cam kết mọi người sẽ tiền hô hậu ủng Linh, rồi thì là Mao Đài với gái tơ thổi Linh lên, tiền không quan trọng... Linh “ứ ử...ừm”).
Có cả TBT Giang và TTg Lý của Tàu cùng ngồi cam kết, lại không có Mười hay Linh bên cạnh, nên Linh hay Mười đều chắc cú mình là ngon số 1 rồi, là kẻ được chọn rồi, gật thôi là được cả mà vẫn an toàn! Linh hay Mười này không thể về không!
Thế là, mọi chuyện đã xảy ra tối và đêm 3/9 nên sáng hôm sau 4/9, Lý Bằng đã nói các vấn đề đã được đồng thuận mỹ mãn (thỏa đáng)? Sự đồng thuận đó là khí nào? (nửa đêm về sáng?), từ ai, với ai? (từ Mười, với Mười và từ Linh với Linh, riêng rẽ mà đồng thuận như nhau!?), và ở đâu? (trên bàn tiệc Kim Ngưu! Hay trên giường, trong chăn Trâu Vàng cũng vậy!
Các bạn cứ nhìn bức ảnh Nhà nghỉ Kim Ngưu tân quán (mới mở riêng cho bọn Mười, Linh…) lợp ngói xanh (Lầu Xanh) bên hồ nước hàng cây xem nó có giống Lầu Xanh kín đáo của Tàu?...)? Và ai đưa ra đề xuất và quyết định viết ‘Kỷ yếu Hội nghị”, như thế nào? Thỏa thuận ở Kim Ngưu đã tự nó từ từ hai bên “đi vào chiều sâu”... kỷ yếu, trong vòng một đêm 3/9/1990.
Kim Ngưu tân quán Lầu Xanh Thành Đô Tứ Xuyên (成都宾馆金牛)
Chúng ta chỉ biết chiều 3/9 đến 8h tối mọi việc còn mù mờ, sau một đêm, sáng 4/9 mọi thứ đã rõ ràng, sẵn sàng, đồng thuận, mỹ mãn. Mà đó là vấn đề quan trọng bậc nhất quyết định sinh mệnh hay tương lai của cả dân tộc Việt Nam, trong tay ba kẻ trên 70 và trên 80 đó...?
Lý viết:
“Thứ Ba, ngày 04 tháng 9.
Buổi sáng, chúng tôi tiếp tục họp với các nhà lãnh đạo của Việt Nam. Tại thời điểm này, có thể nói những vấn đề nêu ra trong đàm phán đã đi đến sự đồng thuận một cách khá thỏa đáng, cùng quyết định soạn thảo một bản "Kỷ yếu hội nghị".
Theo kinh nghiệm đàm phán quốc tế của tôi (hàng chục năm, cả ngoại giao lẫn kinh tế), chuyện đồng thuận như thế giữa hai nước nếu không được hai bên chuẩn bị rất kỹ từ rất lâu trước đó (nhiều tuần nhiều tháng), thì không bao giờ xảy ra trong vòng một đêm, dù là vấn đề nhỏ như bắt giam hay thả vài công dân, hợp đồng kinh tế vài triệu đôla... Thế cho nên, theo tôi, từ sáng 3/9 đến trưa 4/9 bọn chóp bu Trung cộng và Việt cộng đã chỉ đóng kịch với nhau, còn ai đó đã thỏa thuận và làm xong thỏa ước Thành Đô từ trước cho chúng ký kết mà thôi. Cái đêm 3/9 là quan trọng nhất để Linh, Mười gật ký. Ký cái gì không quan trọng - Đồng đã lo xong, miễn là Linh cứu được phe cộng sản toàn thế giới, Mười không cần tự hoạn cũng sẽ được lên TBT....
Chúng ta xem kịch tàu với diễn viên Tàu-Việt tiếp. Chiều 4/9 chúng mở lễ ký kết hiệp ước bán nước và cướp nước, rồi làm thơ tặng nhau sung sướng tỏ ra hài lòng:
“14 giờ 30, trong hai bên Trung-Việt tổ chức một buổi lễ ký kết tại khách sạn trên tầng số 1 Nhà khách Kim Ngưu, hai bên lần lượt đồng ký do Tổng bí thư và Thủ tướng Chính phủ tương ứng. Đây là một bước ngoặc lịch sử trong quan hệ Trung-Việt. Đồng chí Giang Trạch Dân đọc câu thơ của Lỗ Tấn "Phong ba đã trôi, mỗi tình anh em vẫn còn, gặp nhau lại vui, bỏ qua hết thẩy hận thù" (Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu). Tặng cho các đồng chí Việt Nam. Về vấn đề này, các đồng chí Việt Nam tỏ ra hài lòng.”
Nếu là đàm phán thật, và về vấn đề tối quan trọng quyết định sinh mệnh cả dân tộc như thế, thì những người đàm phán phải rất hao tâm tổn chí, tốn sức, tốn lực, đau đầu, mệt óc, thót tim, khó ăn, không ngủ, chỉ có bừng bừng quyết tâm vì quyền lợi dân tộc thôi... Đến khi đạt được thỏa thuận, dù thỏa mãn hay chưa thỏa mãn lắm cũng chả còn tâm hồn và sức lực nào mà tiệc tùng thơ phú đâu!
Cho nên, ai đã từng đàm phán quốc tế thật (tức đại diện đất nước mình thật, bất kể nước nào), với cái tâm thật vì quyền lợi dân nước mình thật (bất kể đó là vấn đề lớn nhỏ nào)... cũng đều hiểu trò hề “đàm phán Thành Đô” trên mà Lý là kẻ trong cuộc ghi nhật ký kể lại khá chính xác, chỉ là màn kịnh “đàm phán” mà thôi. Tôi nghi cả hai lão Linh và Mười đều không biết mình đang/đã diễn kịch hề ở nhà khách Trâu Vàng (Lầu Xanh) Thành Đô, nhưng chiều 4/9 thì họ đã ký thỏa thuận bán nước Việt cho Tàu thật!
Hãy xem chúng “đàm phán” ở Thành Đô mất bao nhiêu thời gian:
Chiều 3/9: hai bên vào đầu thăm dò nhau từ 14h30 đến 18h00: 5 tiếng 30’;
Tôi 3/9: hai bên lần lượt “làm việc riêng” ở Lầu Xanh, Mười trước Linh sau, từ 8h30 đến…? (Lý không ghi lại): dự đoán 08-10 tiếng;
Sáng 4/9: đàm phán nội dung: không cần thiết, đã thỏa thuận mỹ mãn, đã xong Kỷ yếu, chỉ làm lễ ký kết: tổng cộng mất 02-04 tiếng (tùy người: Mười, Linh, Đồng ký kết cấn 02 tiếng, Hoàng Bích Sơn, Hồng Hà, Đinh Nho Liêm điếu đóm, cần 04 tiếng).
Tóm lại, thỏa thuận Thành Đô thực sự được ký ở Lầu Xanh Số 1 Kim Ngưu...
Với mấy tiếng đồng hồ trong Lầu Xanh Thành Đô đó, CSVN đã đẩy cả dân tộc Việt vào họa nô lệ Tàu trăm năm…
Hạ màn ở Lầu Xanh
Màn kịch vậy là Đồng tham gia thiết kế và đạo diễn cùng quan thầy Tàu đã xong. Nó hạ cũng rất nhanh. Lý viết tiếp như trút nợ, bay về bắc Kinh như chạy ma, chả đoái hoài gì đến khách Việt ở Lầu Xanh nữa:
“16:00, chuyên cơ cất cánh về Bắc Kinh, khoảng 6 giờ 10 như vậy đã đến nơi.”
Lý vẫn để lại câu hỏi: Ai đã viết và quyết nội dung thỏa thuận Thành Đô, vì bản thân Lý cũng chỉ làm việc của một diễn viên trong hai ngày 3&4/9/1990 đó?
Không, thật ra Lý đã lộ hết ra rồi: Đồng và Hoa Nam chuẩn bị thỏa thuận, và sau 1 đêm 3/9 “đàm phán miệt mài” riêng rẽ ở Lầu Xanh Kim Ngưu, Mười và Linh đã ký bất cứ cái gì Đồng và Tàu nhà Đồng đưa ra sáng muộn quá trưa ngày 4/9/1990.
Vậy vai trò của Đồng ở Thành Đô là gì? Là ma cô dẫn khách ngu tham điên ác đến Lầu Xanh Kim Ngưu, chỉ có một đêm.
Đúng 50 năm bôn ba phương Nam theo Hồ phụng sự nước Tàu cướp nước Nam từ 1940, làm đến Tể tướng nhiều năm ở đó, nhưng đến 1990 Đồng đã/mới thành công, chỉ bằng động tác làm ma cô cho đảng CSVN vào Lầu Xanh. Hóa ra cướp nước cũng có nhiều đường, con đường dẫn đảng CSVN qua Lầu Xanh là êm ái nhất...
Đảng CSVN đã bán nước Việt cho Tàu ở Lầu Xanh Thành Đô!