Hoài Sơn (Danlambao) - Việt Nam hiện nay là một nước độc đảng, độc tài toàn trị. Từ độc đảng, độc tài chuyển sang đa đảng và tự do, dân chủ, con đường đó đã nhiêu khê mà còn diệu vợi nữa nên phải quyết tâm, kiên trì, có thiện chí mới thực hiện được. Lại phải có tinh thần khoan dung để chấp nhận những tư tưởng và các chánh đảng khác thì mới mong có được dân chủ ở Việt Nam. Nếu CSVN cứ khư khư giáo điều, bảo thủ, hẹp hòi, cố chấp, không chấp nhận đổi mới về chính trị như hiện nay thì vấn đề Dân Chủ Hóa thật sự ở VN vẫn luôn luôn là một giấc mộng không thành. Hoặc đứng trước khát vọng dân chủ cao độ của đại đa số nhân dân mà đa số là giới trẻ thì dân chủ có thể phải đến từ cách khác mà hệ quả không ai đoán trước được.
*
Tại nước nhà cũng như trên toàn thế giới, không lúc nào vấn đề dân chủ được đề cập đến nhiều bằng lúc này: nào dân chủ tự do, dân chủ xã hội, dân chủ nhân dân, liên minh dân chủ v.v... Vì đó tôi cũng xin lạm bàn đến và bài viết của tôi gồm có 5 phần sau đây:
1)- Dân chủ là gì?
2)- Có mấy loại dân chủ?
3)- So sánh các loại dân chủ đã lưu hành.
4)- Làm thế nào để biết một nước thật sự có dân chủ?
5)- Làm thế nào để thực hiện dân chủ thật sự tại Việt-Nam?
I. Dân chủ là gì?
Dân chủ là chế độ trong đó người dân làm chủ đất nước, trái hẳn lại quân chủ là chế độ do nhà vua cầm quyền.
Tư tưởng dân chủ phát khởi ở các nước Tây Âu vào thế kỷ thứ 17. Vào lúc đó, tổ chức xã hội tại các nước Tây Âu còn quá khắc nghiệt, thiếu hẳn công bình.
Trong nước, ngoài nhà vua ra, có 3 hạng là quí tộc, tăng lữ và thứ dân.
Quí tộc và tăng lữ là hai hạng được hoàn toàn ưu đãi. Quí tộc đã được giữ hết các chức vụ lớn nhỏ trong triều đình, còn tăng lữ hưởng rất nhiều đặc ơn, đặc lợi của nhà nước. Người thứ dân, dầu có tài cao, học rộng cũng không được quyền tham gia chánh sự. Đã vậy, triều đình lại can thiệp quá nhiều vào đời sống của dân.
Nông dân bị hoàn toàn lệ thuộc vào các nhà quí tộc địa chủ nên không được đổi chỗ ở, cũng không được đổi nghề v.v… Họ là nông nô nên suốt đời bị cột chặt vào những mảnh đất của địa chủ.
Thợ thuyền ở đô thị thì tương đối đỡ khổ hơn nhưng lại bị lệ thuộc quá nhiều vào các luật lệ khắc nghiệt của các phường công nghiệp nên đời sống của họ cũng không sáng sủa gì hơn. Ngoài ra, cả nông nô lẫn thợ thuyền đều bị bắt buộc phải theo đạo của nhà vua. Người nào theo đạo khác thì bị khủng bố, giết hại, khó lòng sống yên ổn được. Họ không có được chút nào về tự do cư trú, tự do đi lại, tự do nghề nghiệp, tự do tôn giáo… Triều đình lại ăn tiêu xa xỉ, thuế khóa càng ngày càng nặng mà các hạng quí tộc, tăng lữ lại được miễn thuế, không phải đóng, nên tất cả gánh nặng thuế khóa dân chúng phải gánh đủ.
Đời sống của dân chúng bấy giờ thật vô cùng khổ sở. Nhân thấy sự cùng cực của họ là do sự bất công của chế độ xã hội đương thời nên một số học giả như John Locke ở Anh, Jean Jacques Rousseau ở Pháp, nêu ra thuyết Dân Chủ, lấy Tự Do và Bình Đẳng làm nền tảng.
Theo lý thuyết Dân Chủ, mọi người sinh ra tánh vốn tốt, và đều được Tự Do và Bình Đẳng. Chỉ vì xã hội hủ bại cho nên họ trở nên xấu, mất hết tự do và phải chịu nhiều sự bất công, thành ra khổ sở vô cùng. Muốn cho mọi người được hạnh phúc, thì phải cải tổ xã hội cho tốt trở lại, đồng thời phải bảo đảm cho mọi người được tự do và bình đẳng với nhau.
Dân chúng tại các nước Tây Âu đang khao khát tự do và bình đẳng nên nhiệt liệt hoan nghênh lý thuyết Dân chủ. Họ lần lượt nổi lên đánh đổ những nhà vua chuyên chế và thiết lập chế độ Dân Chủ. Trong chế độ này, người dân được quyền tham gia chánh sự bằng cách bầu cử người thay mình vào Quốc Hội làm ra luật pháp, ban bố mọi quyền tự do căn bản, đồng thời công nhận mọi người đều bình đẳng với nhau trước pháp luật.
II. Có mấy loại Dân Chủ:
Trong lý thuyết Dân Chủ của John Locke và J.J. Rousseau, có hai yếu tố quan trọng là tự do và bình đẳng. Có đủ hai yếu tố này mới gọi là dân chủ. Thiếu một chưa phải là dân chủ. Nhưng tự do và bình đẳng thường chống chọi nhau, ít đi đôi với nhau được.
Con người sinh ra vốn mạnh yếu, khôn dại, giỏi dở khác nhau. Nếu cho họ hoàn toàn tự do hoạt động thì người mạnh hơn kẻ yếu, người giỏi hơn kẻ dở, nên sự bình đẳng không thể có được. Bằng trái lại, muốn cho mọi người đồng đều như nhau, tức bình đẳng với nhau, thì phải hạn chế sự hoạt động của người mạnh, người khôn, người giỏi, mà làm như vậy là hạn chế sự tự do hoạt động của họ rồi.
Vậy hai lý tưởng tự do và bình đẳng thường chống chọi nhau, không thể đi chung với nhau, cho nên một xã hội tự do bình đẳng thật sự khó thực hiện được. Vì đó, trong hai yếu tố chỉ chọn một, hoặc tự do, hoặc bình đẳng, rồi khắc phục yếu tố kia, được nhiều chừng nào tốt chừng ấy, chớ không thể thực hiện cùng một lúc cả tự do lẩn bình đẳng được.
1)- Tại các nước Tây Phương, người ta rất chuộng tự do. Đối với họ, tự do hay là chết. Vì đó, trong hai yếu tố tự do và bình đẳng của dân chủ, họ chọn yếu tố tự do, rồi cố gắng khắc phục cho được phần nào bình đẳng, như bình đẳng trước pháp luật, bình đằng trước bổn phận và quyền lợi công dân v.v… Vì đó, người ta gọi dân chủ tại các nước Tây Phương là nền Dân Chủ Tự Do.
2)- Các nước Xã Hội Chủ Nghĩa, trái lại, cho rằng tự do là mờ ảo, trừu tượng, không có thực. Nếu có, là đối với người giàu có, quyền thế. Còn đối với người nghèo, yếu thế thì không thể nào có tự do được. Như quyền tự do du lịch, tự do mở nhà in, xuất bản báo chí, tự do kinh doanh, mở ngân hàng v.v… Những quyền tự do đó, chỉ những người giàu có, quyền thế hưởng mà thôi, còn người nghèo khó thì chỉ biết ngồi nhìn và mơ ước. Vì đó, người Cộng Sản gạt qua một bên một bên yếu tố tự do, chỉ nhằm chủ trương thực hiện bình đẳng mà thôi.
Để thực hiện bình đẳng, CS chủ trương tập trung mọi tài sản trong nước làm của chung, giao cho nhà nước quản lý, không ai còn có của riêng, không còn kẻ giàu, người nghèo nên bình đẳng với nhau. Nhà nước sẽ thực hiện chế độ Cộng Sản, không giai cấp, trong đó, nhơn loại sẽ sống thân ái với nhau trong cảnh hoan lạc của thế giới đại đồng. Vì đó, dân chủ tại các nước CS được gọi là Dân Chủ Bình Đẳng (hay Dân Chủ Bình Dân, nhưng sau này được gọi thông dụng nhứt là Dân Chủ Nhân Dân như CHDCND Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên v.v…)
3)- Ngoài hai loại Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Bình Đẳng kể trên, còn có loại dân chủ thứ ba là Dân Chủ Hướng Dẫn (Démocratie Dirigée).
Số là vào đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, Ông Soekarno (TT Nam Dương) và Thái Tử Sihanouk (QT Cam Bốt) thấy rằng theo DCTD là làm tay sai cho Tư Bản, còn theo DCBĐ là làm đàn em của CS, nên hai Ông cùng đề ra một loại dân chủ mới là Dân Chủ Hướng Dẫn.
Theo hai ông này, dân chủ cao siêu và ảo diệu lắm, chỉ những người học cao, dày dặn trong chính trường thì mới hiểu được và áp dụng tốt, còn dân chúng vì dốt nát hoặc ít học thì không sao hiểu được. Vậy cần phải nghe lời dạy bảo, chỉ dẫn của nhà cầm quyền. Vì đó, dân chủ được hai ông Soekarno và Sihanouk đề xướng được gọi là Dân Chủ Hướng Dẫn.
Nhưng vì nền dân chủ này vừa mới được manh nha vào đầu thập niên 60 thì đến năm 1965, TT Soekarno bị CS Nam Dương lật đồ (sau đó, đám loạn quân CS này bị tướng Suharto tàn sát nên trật tự mới được vãn hồi), rồi đến năm 1970, QT Cam bốt Sihanouk bị tướng Lon Nol đảo chánh phải lưu vong ra ngoại quốc. Vì đó, thuyết Dân Chủ Hướng Dẫn bị chết trong trứng nước.
Rốt cuộc, trên thế giới chỉ còn có hai loại dân chủ là Dân Chủ Tự Do (hay Dân Chủ Tư Sản theo lối nói của người CS) và Dân Chủ Bình Đẳng (hay DCBD hoặc DCND theo lối nói của người tự do).
III. So sánh Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Bình Đẳng:
Dân Chủ gồm có hai yếu tố cấu thành là Tự Do và Bình Đẳng. Có đủ hai yếu tố mới được gọi là dân chủ (thiếu một cũng không được). Nếu cụ thể hóa dân chủ bằng con số để làm một cuộc so sánh thô thiển thì dân chủ ví với con số 100, còn tự do là 50 và bình đẳng cũng 50.
Dân chủ 100 = Tự Do 50 + Bình Đẳng 50
Dựa vào phương trình trên đây, ta thử làm một cuộc so sánh giữa DCTD và DCBĐ.
1)- Dân Chủ Tự Do: Người Tây Phương chuộng tự do nên trong hai yếu tố của dân chủ họ chọn yếu tố tự do. Vì đó, nền dân chủ của họ được gọi là Dân Chủ Tự Do. Trong nền dân chủ này, họ áp dụng đủ mọi thứ tự do như tự do cư trú, tự do đi lại, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do lập hội, tự do hội họp v.v… Vậy trong 50% tự do, họ đạt ít nhất cũng 40%.
Thiếu bình đẳng, họ cố gắng khắc phục bằng bình đẳng trước pháp luật, trước bổn phận và quyền lợi công dân. Trước luật pháp, cùng phạm một tội, người có chức quyền và người thứ dân đều bị xử y như nhau, nếu bị kết tội thì cùng bị kết tội như nhau, nếu được tha bổng thì cùng được tha như nhau. Đó là bình đẳng trước pháp luật. Còn trước bổn phận và quyền lợi công dân, thì nếu phải thi hành quân dịch, phải đóng thuế hay được hưởng một quyền lợi gì thì đều cùng được đối xử hoặc thi hành như nhau. Tóm lại, nhờ biết áp dụng nhiều biện pháp khắc phục nên họ cũng đạt ít lắm cũng là 30% trong 50% của bình đẳng.
Kể chung, trong 100% của dân chủ, nền Dân Chủ Tự Do của Tây Phương cũng đạt đến 70% (40% của yếu tố tự do và 30% của yếu tố bình đẳng).
2)- Dân Chủ Bình Đẳng (hay DCND): Người Cộng Sản phủ nhận hoàn toàn yếu tố tự do. Họ cho rằng tự do chỉ là ảo vọng, chỉ có bọn giàu có, có nhiều phương tiện mới hưởng được, còn bọn nghèo khó chẳng hưởng được gì, nên họ gạt tự do ra khỏi dân chủ. Vì đó, trong dân chủ của họ chẳng có tự do gì cả, từ các tự do lớn như tự do hội họp, tự do lập hội, tự do tư tưởng, tự do báo chí v.v… cho đến các tự do nhỏ như tự do đi lại, tự do cư trú mà cũng không có nửa. Tất cả đều phải xin phép. Việc cư trú là một vấn đề rất bình thường tại các nước tự do, muốn ở đâu thì ở, không cần phải xin phép, vậy mà ở VN, cư trú là một vấn đề trọng đại, phải mất nhiều công sức, lắm khi rất nhiều tiền bạc mới được cấp hộ khẩu. Vậy trong dân chủ bình đẳng của CS, chưa đạt 10% trong 50% của yếu tố tự do.
Về bình đẳng, tuy mang danh là Dân Chủ Bình Đẳng, nhưng trên thực tế, đâu đâu cũng đều thể hiện rõ ràng sự bất bình đẳng: trong bầu cử, chỉ có đảng viên (3 triệu) là được quyền ứng cử, còn toàn thể dân chúng (80 triệu) vì phải trải qua sự sàng lọc của MTTQ, nên đều bị loại. Nhập bệnh viện, vào học đường, nhận học bổng, xuất ngoại cũng đều như vậy hết. Tóm lại, họ chưa đạt được 20% trong 50% của yếu tố bình đẳng.
Kể chung, trong 100% của dân chủ, thì nền Dân chủ Bình Đằng tức Dân Chủ Nhân Dân chỉ đạt được tối đa là 30% (10% của yếu tố tự do và 20% của yếu tố bình đẳng.
Nếu làm một cuộc so sánh cụ thể, ta có thể ví nền dân chủ hoàn toàn với 2 yếu tố Tự Do và Bình Đẳng (100%) với bầu trời xanh trong, nền Dân Chủ Tự Do (70%) với Vườn nhà và nền Dân Chủ Bình Đẳng (30%) với lồng chim trong vườn thì ta mới hình dung hết sự khác biệt của các nền dân chủ này. Chim trong lồng cũng như trong vườn đều được tự do, không bị trói buộc gì cả. Chúng được tự do bay nhảy. Có điều, lồng hẹp lại làm bằng gổ cứng, chắc nên chúng bị va đầu nhiều, đau đớn, tù túng. Còn chim trong vườn thì nhờ vườn rộng, rào thưa nên thoải mái, tung tăng bay nhảy. Con người trong hai chế độ cũng vậy: đều được tự do cả. Có khác biệt là do phạm vi rộng hẹp mà thôi. Vì đó, chim trong lồng bao giờ cũng muốn được sổ lồng ra vườn, còn chim trong vườn không bao giờ muốn bị vào lồng.
IV. Làm thế nào để biết một nước thật sự có dân chủ?
Muốn biết một nước thật sự có dân chủ hay không ta phải dựa vào 4 tiêu chuẩn sau đây:
Có bầu cử thật sự tự do và trong sạch không?
Có tam quyền phân lập không?
Có đối lập chánh trị không?
Có thay đổi nhà cầm quyền không?
Nếu có đủ cả 4 tiêu chuẩn là có dân chủ thật sự, bằng không có hoặc có mà chưa đủ là không có dân chủ hoặc dân chủ chưa hoàn toàn. Sau đây là các chi tiết:
1)- Có bầu cử thật sự tự do và trong sạch không? Nói đến bầu cử tự do là nói đến bầu cử trong đó mọi người dân, mọi xu hướng, tổ chức chánh trị đều được quyền tham dự. Vậy trong nước đã có đa nguyên, đa đảng rồi. Còn bầu cử trong sạch là bầu cử ngay thẳng, không có gian lận. Vậy câu bầu cử thật sự tự do và trong sạch ám tàng trong nước đã có tự do chánh trị, mọi người bất luận thuộc tổ chức, đảng phái nào cũng được quyền ứng cử và cuộc bầu cử được tổ chức ngay thẳng, không gian lận.
2)- Có tam quyền phân lập không? Ba quyền Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp phải hoàn toàn phân biệt nhau và độc lập với nhau. Có như vậy luật pháp mới được minh định rõ ràng và công lý mới được bảo đảm.
3)- Có đối lập chánh trị không? Đối lập chánh trị rất cần thiết trong sinh hoạt chánh trị. Nó rất cần cho chế độ, giống như thuốc uống đối với con người và cái thắng đối với chiếc xe. Con người, lúc mạnh không cần đến thuốc nhưng lúc ốm đau phải uống thuốc. Vậy trong nhà phải có tủ thuốc để phòng hờ. Chiếc xe, lúc chạy không cần thắng nhưng khi quẹo cua phải rà thắng, hay khi tai nạn xảy ra phải thắng gấp để tránh tai nạn. Chánh quyền cũng vậy, lúc bình thường (mạnh khỏe) không cần đến đối lập, nhưng khi gặp khó khăn, khủng hoảng (tức đau yếu, bịnh hoạn) cần có đối lập để sửa chữa kịp thời.
Đối lập chánh trị phải tập thể, công khai, hợp pháp, bất bạo động và xây dựng. Cá nhơn, dầu tài giỏi thế mấy cũng không được nhận là đối lập. Phải là một chánh đảng mạnh, một tổ chức lớn mới được chấp nhận là đối lập chính trị. Và đối lập là để xây dựng, xây dựng cho tốt đẹp hơn, lương hảo hơn, cho nên cần phải phân biệt đối lập xây dựng với đả phá, chống đối.
4)- Nhà cầm quyền có luôn thay đổi không? Người cầm quyền chỉ giữ chức vụ theo nhiệm kỳ, thông thường là 2 nhiệm kỳ, sau đó phải rút lui, nhường chổ cho người sau. Bởi vì cầm quyền lâu ngày sẽ đưa đến tệ trạng quan liêu, hách dịch, bè phái, lạm quyền, lộng quyền, là nguyên nhân của tham nhũng, thối nát, độc tài. Lý Thừa Vãn ở Nam Hàn, Marcos ở Phi Luật Tân, Suharto ở Nam Dương v.v… là những bằng chứng điển hình.
Tóm lại, nước nào có bầu cử thật sự tự do và trong sạch, có tam quyền phân lập, có chấp nhận đối lập chánh trị và có thay đổi nhà cầm quyền thì nước đó có dân chủ thật sự. Bằng chưa có hoặc có mà chưa đủ thì chưa có dân chủ.
Dựa vào 4 tiêu chuẩn trên đây, ta thử xét nước Hoa Kỳ (tiêu biểu cho nền Dân Chủ Tự Do) và Cộng Hòa XHCN Việt Nam (tiêu biểu cho nền Dân chủ Bình Đằng hay DCND) để xem hai nước đó đã có dân chủ thật sự hay chưa?
A.- Tại Hoa Kỳ:
a)- Về bầu cử: nếu không phạm tội theo luật pháp qui định, người nào cũng đều được ứng cử, bầu cử, không bị hạn chế vì bất cứ lý do gì. Vậy tại Hoa Kỳ, có bầu cử tự do và cũng trong sạch, không gian lận nữa. Điển hình, trong cuộc bầu cử năm 1992, TT đương nhiệm là ông Bush cha bị thất cử khi ra tái ứng cử thì không thể bảo rằng có bầu cử gian lận được.
b)- Về tam quyền phân lập: tại Hoa Kỳ, các quyền Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp được phân chia và biệt lập rất rõ ràng, không quyền nào lấn quyền nào. Khi Hành Pháp và Lập Pháp có mâu thuẫn không giải quyết được thì đưa ra cho Tối Cao Pháp Viện phán xét và phán quyết của TCPV là chung thẩm, Hành Pháp và Lập Pháp phải chấp hành. Như trường hợp Cựu TT Clinton lạng quạng với cô Monica Lewinsky bị Quốc Hội làm to chuyện, định truất phế ông Clinton. Vụ việc không giải quyết được phải đưa ra TCPV và chính nhờ có phán quyết của TCPV mà nội vụ mới êm được. Vậy, tại Hoa Kỳ, tam quyền có phân lập rõ ràng.
c)- Về đối lập chánh trị: Sau các cuộc bầu cử, đảng nào thắng cử thì đảng đó cầm quyền, đảng thất cử đóng vai trò đối lập. Rồi cứ thế tiếp diễn, đảng nào giữ vai trò của đảng nấy, hoặc cầm quyền hoặc đối lập và thi hành đúng nhiệm vụ của mình nên việc chánh trị rất điều hòa, nước nhà ổn định và phát triển. Đặc biệt là đối lập thường chú trọng vào các vấn đề an sinh, nội trị, còn những vấn đề liên quan đến vận mạng của nước nhà thì đối lập thường hợp tác với chánh quyền để giải quyết như việc chống khủng bố, A Phú Hản, Irag v.v… Đó là đối lập xây dựng và đối lập tại HK đã chứng tỏ được sự trưởng thành chánh trị của mình.
d)- Về nhà cầm quyền phải thay đổi: Nhà cầm quyền luôn thay đổi. Hiến pháp đã qui định mỗi TT chỉ cầm quyền tối đa là 2 nhiệm kỳ. chỉ có Tổng Thống Franklin Rooswelt là làm đến 4 nhiệm kỳ. Đó là trường hợp đặc biệt và hi hữu. Số là vào năm 1932, HK trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế nặng nề. Ông Roosewelt đưa ra chánh sách giải quyết kinh tế thích hợp nên được dân chúng ủng hộ và ông đắc cử. Biện pháp của ông tỏ ra hữu hiệu. Nạn khủng hoảng được giải quyết, nên đến cuộc bầu cử năm 1936, ông được tái đắc cử vẻ vang. Đến cuộc bầu cử năm 1940, đáng lẽ ông không còn được quyền tái ứng cử nữa, nhưng vì lúc bấy giờ, Đệ II Thế Chiến đã nổ ra, tình hình thế giới rất nghiêm trọng, HK cần có người tài ba, giàu kinh nghiệm lãnh đạo đất nước, để đối phó với tình thế nên ông Roosewelt được đặc cách tái ứng cử lần thứ ba và cũng thắng cử vẻ vang. Đến năm 1944, chiến tranh vẫn chưa chấm dứt nên ông lại được đặc cách ứng cử lần thứ tư để đưa chiến tranh đến thắng lợi. Và đến năm sau (1945), HK đang bước chân đến chiến thắng thì ông mất, sau khi làm Tổng Thống 4 nhiệm kỳ. Sau khi ông mất, Hoa Kỳ tu chính Hiến Pháp, qui định không ai được làm TT quá 2 nhiệm kỳ. Vì đó, nhà cầm quyền tại HK luôn luôn được thay đổi.
Tóm lại, trong 4 tiêu chuẩn về dân chủ, HK hội đủ cả 4, nên tại HK có dân chủ thật sự.
B. Tại Cộng Hòa XHCN Việt-Nam:
a)- Về bầu cử: tại CHXHCNVN không có tự do và cũng không trong sạch. Không tự do vì chỉ có những đảng viên Cộng Sản mới được ứng cử thông qua sự giới thiệu của tổ chức ngoại vi là Mặt Trận Tổ Quốc. Vì đó, ứng cử và đắc cử đều là người Cộng Sản.
Tại Hoa Kỳ, các cuộc bầu cử đều tự do, ai cũng được quyền ứng cử. Vì đó, UCV đều là người của dân, được đắc cử là do dân ủng hộ bầu ra, cho nên khi đắc cử, họ phải vì dân mà tranh đấu (bằng không, kỳ sau dân sẽ không bầu lại nữa). Vì đó, chế độ tại HK là chế độ của Dân, do Dân và vì Dân. Đó là chế độ Dân trị.
Tại CHXHCNVN, qua cuộc sàng lọc của Mặt Trận Tổ Quốc, các UCV đều là người của Đảng, được đắc cử là do Đảng xếp đặt, cho nên, sau khi đắc cử, phải vì Đảng mà tranh đấu. Vì đó, chế độ tại CHXHCN Việt Nam là chế độ của Đảng, do Đảng và vì Đảng. Đó là chế độ Đảng trị.
Các cuộc bầu cử đều được diễn ra trước họng súng, do đó cũng không trong sạch. Có những UCV người miền Bắc, chưa biết gì về miền Nam nhưng lại được chỉ định ứng cử trong Nam và khi công bố kết quả lại được đắc cử với số phiếu rất cao. Tại các nước DC Tây Phương, đắc cử với số phiếu 60% là vẻ vang lắm rồi, nhưng tại VN, được 95-97% là bình thường, phải 98-99% mới là đắc cử vẻ vang.
Vậy tại Việt-Nam, bầu cử không có tự do và cũng không trong sạch.
b)- Về tam quyền phân lập: Tại CHXHCNVN không có tam quyền phân lập. Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Toàn Đảng lại đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Bộ Chánh Trị. Bộ Chánh Trị là cơ quan tối cao, đầy quyền lực. Mọi mệnh lệnh, mọi thưởng phạt đều xuất phát từ đây. Nó là tổ chức siêu chánh quyền tuy vô trách nhiệm nhưng có quyền hành vô hạn, bao trùm lên cả 3 ngành Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp. Vì đó, tại CHXHCNVN không có tam quyền phân lập.
c)- Về đối lập chánh trị: Việt Nam là quốc gia độc đảng đó là Đảng Cộng Sản. Họ luôn luôn tự cho mình là siêu việt, không bao giờ sai lầm nên không chấp nhận đối lập. Mọi ý kiến khác với Đảng CS đều bị qui chụp là phản động, chống phá cách mạng.
d)- Về nhà cầm quyền phải thay đổi: Các nhà lãnh đạo CS thường cầm quyền cho đến khi qua đời như Lénine, Staline tại Liên Xô, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai tại TQ, Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Hùng …tại VN, truyền lại cho thân quyến như tại Bắc Hàn, Cuba v.v… Việc cầm quyền quá lâu đã làm nảy sinh việc quan liêu, bè phái, tham nhũng, lộng quyền…
Tóm lại, trong 4 tiêu chuẩn qui định về dân chủ, tại CHXHCNVN không có một tiêu chuẩn nào. Vậy tại Việt Nam không có dân chủ.
V. Làm thế nào để thực hiện dân chủ thật sự tại Việt Nam:
Muốn thực hiện dân chủ, trước hết phải có tinh thần dân chủ. Không có tinh thần dân chủ, thì chớ nói đến dân chủ vì có nói đến chỉ là nói dối, lừa bịp mà thôi. Ngoài ra, phải có thêm tinh thần khoan dung nữa. Bởi vì dân chủ vốn đa nguyên, đa đảng, nếu không có tinh thần khoan dung để chấp nhận các tư tưởng, các chánh đảng khác với tư tưởng, chánh đảng của mình thì làm sao có dân chủ được. Vậy tinh thần dân chủ và tinh thần khoan dung là hai điều kiện tối cần cho việc thực hiện dân chủ.
Muốn có dân chủ, trước hết trong nước phải có một hệ thống các chánh đảng hoạt động điều hòa. Không có hệ thống chánh đảng hoạt động điều hòa thì không thể có hoạt động chánh trị ổn định được. Vậy hệ thống chánh đảng hoạt động điều hòa là điều kiện tiên quyết tối cần cho sự ổn định của đất nước.
Hãy nhìn ra thế giới: nước nào có được hệ thống chánh trị trưởng thành hoạt động điều hòa thì nước đó rất ổn định về chánh trị và phát triển kinh tế. Đó là các nước Tây u và Bắc Mỹ. Dân chúng tại các nước này được sống trong an bình, ấm no và hạnh phúc.
Trái lại, tại các nước chưa có hệ thống chánh đảng, hoặc có mà còn ấu trĩ, chưa hoạt động điều hòa thì luôn luôn bị bất ổn về chánh trị và chậm tiến về kinh tế. Đó là các nước thuộc Châu Mỹ La Tinh và phần lớn các nước thuộc Phi Châu. Tại đây, vì đảo chánh triền miên nên kinh tế không phát triển được
Hãy nhìn lại các nước gần ta, tại Á Đông này. Đó là các nước Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, Phi Luật Tân, Thái Lan, Nam Dương. Tại các nước này, nước nào cũng có hệ thống chánh đảng cả nhưng các nước Nhật, Nam Hàn Đài Loan thì luôn luôn ổn định, còn các nước Phi Luật Tân, Thái Lan, Nam Dương thì bất ổn triền miên. Vì sao? Vì tại Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, các chánh đảng đã trưởng thành, hoạt động điều hòa, đúng theo luật pháp qui định, nên chánh trị rất ổn định, không bao giờ có chánh biến. Còn tại các nước Phi Luật Tân, Thái Lan, Nam Dương, vì các chánh đảng chưa trưởng thành, chưa hoạt động điều hòa, nên hể nắm được trọng quyền thì họ hay lạm quyền hoặc gây ra các cuộc chánh biến. Mà phấn đông các cuộc chánh biến này do quân đội gây ra, cho nên gọi là binh biến mới đúng.
Tóm lại, muốn có dân chủ thật sự tại Việt Nam, trước hết cần phải có một hệ thống chánh đảng. Không có hệ thống chánh đảng hay chỉ có độc đảng như CHXHCN Việt-Nam hiện nay thì chớ nói đến dân chủ. Nhưng có hệ thống chánh đảng chỉ mới là điều kiện cần chớ chưa đủ. Muốn có đủ thì hệ thống chánh đảng đó phải trưởng thành, hoạt động điều hòa thì mới có dân chủ thật sự được. Vậy, có hệ thống chánh đảng và các chánh đảng đó đều phải hoạt động điều hòa là 2 điều kiện tối cần để thực hiện dân chủ tại Việt-Nam.
Nhưng Cộng Sản Việt-Nam lại rất ngại dân chủ. Họ sợ dân chủ sẽ bất ổn, sẽ mất chánh quyền, cho nên họ chỉ đổi mới kinh tế mà không dám đổi mới chánh trị để thực hiện dân chủ. Sợ rồi không dám thì không bao giờ có dân chủ được.
Thực hiện dân chủ giống như tập bơi hay đi xe đạp. Tập bơi phải uống nước vài lần, nếu sợ uống nước thì không bao giờ biết bơi. Tập đi xe đạp cũng vậy, phải chấp nhận té vài lần và nếu sợ té thì không bao giờ biết đi xe đạp. Thực hiện dân chủ cũng vậy, phải chấp nhận bất ổn vài lần thì sẽ thực hiện được. Một thí dụ điển hình là cuộc Cách Mạng Dân Quyền tại Pháp. Cuộc cách mạng “long trời lỡ đất” xảy ra từ năm 1789, vậy mà phải đợi đến nền Đệ Nhứt, Đệ Nhị, Đệ Tam Cộng Hòa rồi đến hết Đệ I Thế Chiến chấm dứt (tức là gần 130 năm sau) mới có dân chủ thật sự.
Nhật, Đài Loan, Nam Hàn có được nền chánh trị ổn định như ngày nay là nhờ họ dám thực hiện dân chủ, dám chấp nhận bất ổn lúc ban đầu, rút tỉa kinh nghiệm để lần lần trưởng thành. Phi Luật Tân, Thái Lan, Nam Dương, nếu cứ tiếp tục con đường dân chủ hóa, điều hòa các hoạt động của mình thì nền chánh trị của họ sẽ lần lần trưởng thành.
Việt Nam hiện nay là một nước độc đảng, độc tài toàn trị. Từ độc đảng, độc tài chuyển sang đa đảng và tự do, dân chủ, con đường đó đã nhiêu khê mà còn diệu vợi nữa nên phải quyết tâm, kiên trì, có thiện chí mới thực hiện được. Lại phải có tinh thần khoan dung để chấp nhận những tư tưởng và các chánh đảng khác thì mới mong có được dân chủ ở Việt Nam.
Nếu CSVN cứ khư khư giáo điều, bảo thủ, hẹp hòi, cố chấp, không chấp nhận đổi mới về chính trị như hiện nay thì vấn đề Dân Chủ Hóa thật sự ở VN vẫn luôn luôn là một giấc mộng không thành. Hoặc đứng trước khát vọng dân chủ cao độ của đại đa số nhân dân mà đa số là giới trẻ thì dân chủ có thể phải đến từ cách khác mà hệ quả không ai đoán trước được.
Nam California, ngày 12 tháng 12 năm 2015