Nguyên Thạch (Danlambao) - 40 năm dòng thời gian nghiệt ngã đã trôi qua, nó mang theo vô vàn thống khổ của một dân tộc đã bị đọa đày. 40 năm dài dân tôi đã kéo lê cuộc đời trong cùng cực của lầm than khốn khó, chìm ngập trong hố thẳm đoạn trường... Thượng Đế hỡi, Việt tộc còn gánh chịu đến bao giờ?.
*
Từ ngày có đảng là dân ta nếm đủ thứ mùi khổ nạn. Mỗi người mỗi cảnh khổ, mỗi giai đoạn mỗi thứ khổ đặc thù. Người cùng khổ, nhà nhà cùng khổ, cả nước cùng khổ dưới cái gọi là sự lãnh đạo tài tình của đảng cộng sản Việt Nam quang vinh.
Cái khổ nạn trầm trọng nhất, trần ai nhất là cái khổ về chủ nghĩa hoang đường mà Hồ Chí Minh là một thứ Nhân Tai, đấy là nguyên nhân của mọi nguyên nhân đưa đến cảnh khổ. Khổ dai dẳng, khổ triền miên, khổ như điên, khổ khắp mọi miền, khổ từ thành thị cho đến bưng biền, khổ vì cơm áo gạo tiền cho đến muộn phiền trong tâm khảm. Khổ vì đời sống bị tù đày giam hãm, khổ từ Cách mạng tháng Tám tê tái cho đến ngày "phỏng d... 1975'. Khổ vì bị giam cầm trong một nhà tù oái oăm vĩ đại, khổ vì đời bỗng dưng bị biến thành ngu dại, khổ vì những chính sách của đảng luôn thất bại nặng nề... Ôi chuỗi cảnh khổ lê thê từ thôn quê đến thành thị vì đảng là một lũ ngu lâu dốt dài độc tài và toàn trị.
Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm (Xét lại chống đảng), chế độ tem phiếu lương thực, đấu tố phê và tự phê, chiến dịch Mậu Thân, Thảm sát Huế 1968, vượt Trường Sơn, Phỏng d...1975, cải tạo Công Thương nghiệp, kế hoạch Kinh tế mới, "Nghĩa vụ quốc tế" đánh Campuchea", "Bài học 1979", cải tạo" Quân Cán Chính VNCH, Kinh tế Hợp tác xã, Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, 16 vàng 4 tốt... Tất cả đều là thảm trạng khổ ải mà đảng ngu lâu dốt bền cứ lấy dân ra làm thí nghiệm để gọi là học tập cho hơn 70 năm ở miền Bắc và 40 năm cho cả nước. Những cảnh khổ cùng khắp quê hương trên từng cây số mà không bút mực nào tả xiết.
Xin mời bạn đọc ôn lại (và xin bổ sung thêm) những cảnh khổ trong vô vàn cái khổ sau đây để hiểu được cái khổ là như thế nào:
1- Cuộc đấu tố Cải Cách Ruộng Đất
- Bà Tơ được các du kích khoác súng dẫn ra bãi tha ma cách bãi chợ vài trăm mét, một lỗ huyệt đã được đào, cạnh bờ huyệt, một cột gỗ được đóng sẵn, các du kích trói bà vào cột. Một loạt súng nổ, bà Tơ từ từ khụy xuống, rồi đầu gục trước ngực. Dân chúng chỉ được quan sát từ xa, nên không biết họ chôn bà Tơ như thế nào, không thấy áo quan hay bất cứ mảnh gỗ hay tấm chiếu mang đến cạnh huyệt trước đó, có lẽ bà được hất ngay xuống huyệt và lấp đất lên. (1)
- Lúc ấy, người nào càng hăng hái, càng tốt, càng đấu tố, càng đánh đập, thì càng tốt. Có những người bị tử hình, ông cụ tôi bị kết án tử hình, bắn chết ngay, lôi ra bắn chết ngay, bắn ngay trước mặt mọi người, con cháu… Đấu tố bố mình, bắt phải ra nhìn… Còn những người khác bị tra tấn, bị chết thì cho là họ tự tử, bắn thì rõ ràng rồi, mấy trường hợp… Cuối cùng thì sửa sai, biết là sai lầm, rồi xin lỗi, thế thôi!" (2)
- Ngay cả em ruột ông nội tôi là một nhà sư rất nổi tiếng ở huyện cũng bị đấu tố đến mức tự treo cổ chết. Sau này, ông cũng được xuống thành phần. Ông sư trong chùa có gì mà là địa chủ. Họ cốt quy ông là địa chủ để phá chùa của ông thôi. Gần như Cải cách Ruộng đất tiến đến một cuộc diệt chủng. Ví dụ như ông cố sinh ra ông nội tôi, năm đó gần 90 tuổi, râu tóc bạc phơ. Vậy mà họ cũng đem ông ra ruộng đào hố đấu tố ông chỉ vì ông có nhà to nhất làng. Ông cố tôi là một trong những người lập ra cái làng đó. Ông bị đấu tố tới ngất đi. Ông xin xử bắn cho ông được yên mà họ không bắn, đem nhốt ông trong nhà bếp bên cạnh nhà tôi, không cho ăn. Cứ đêm đến ông gọi tôi qua cửa sổ ‘Ông Hảo ơi cho con xin miếng cơm.’ Mẹ tôi thỉnh thoảng lén ném qua cửa sổ cho ông một nắm cơm để ông sống. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ông chết. (3)
2- Nhân Văn Giai Phẩm (Xét lại chống đảng)
- Một số văn nghệ sĩ trong phong trào:
Bùi Xuân Phái, Cao Xuân Huy, Chu Ngọc, Đào Duy Anh, Đặng Đình Hưng, Đỗ, Đức Dục, Hoàng Cầm, Hoàng Công Khanh, Hoàng Huế, Hoàng Tích Linh, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Yến, Huy Phương, Hữu Loan, Hữu Thung, Lê Đại Thanh, Lê Đạt, Nguyễn Bính, Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Tuân, Nguyễn Văn Tý, Như Mai, Phan Khôi, Phan Vũ, Phùng Cung, Phùng Quán, Quang Dũng, Sĩ Ngọc, Thanh Bình, Thụy An, Trần Công
Trần Dần, Trần Đức Thảo, Trần Duy, Trần Lê Văn, Trần Thiếu Bảo, Trần Thịnh, Trương Tửu, Tử Phác, Vĩnh Mai, Văn Cao, Xuân Sách, Yến Lan
Bị xử phạt nặng nhất là Thụy An và Nguyễn Hữu Đang. Bà Thụy An bị kết tội làm gián điệp, cùng với đó là bài báo công kích "mụ phù thủy hiện nguyên hình rắn độc", bị kết án 15 năm tù cùng với Nguyễn Hữu Đang trong phiên tòa ngày 21/1/1960 tại Hà Nội. Mãi đến năm 1973 hai người mới được ra tù nhưng bị quản thúc thêm một thời gian nữa. (4)
3- Chiến dịch Mậu Thân 1968
- Kết quả là Việt Cộng đã hoàn toàn thất bại, trong khi đó họ đã phá hủy 50,000 căn nhà của dân, đem chết chóc đến cho 14,000 đồng bào đủ cả già trẻ gái trai và "vô sản hóa" 70,000 người đa số là dân lao động. Ngoài ra điều dã man chưa từng thấy trong lịch sử loài người là họ đã xua những lực lượng gồm 7 phần 10 con nít vào lò lửa chiến tranh và mở những cuộc pháo kích bừa bãi vào những khu gia cư nghèo khó, đông đúc không có lấy một cơ quan quân sự, để trả thù sự bất cộng tác của dân chúng. (5)
4- Thảm sát Huế 1968
- "Câu chuyện (về Huế) chưa chấm dứt. Nếu ước đoán của giới chức Huế được coi như gần đúng, khoảng 2.000 người vẫn còn mất tích. Tổng kết về người chết và mất tích như sau:
Tổng số dân sự tử vong: 7.600 - chết lẫn mất tích
Chiến trường: - 1.900 bị thương vì chiến cuộc; 944 thường dân chết vì chiến cuộc
Nạn nhân trong những ngôi mộ tập thể:
1.173 - số tử thi tìm trong đợt đầu sau cuộc chiến, 1968
809 - số tử thi tìm trong đợt nhì, kể cả tìm thấy ở đụn cát, tháng 3-7 năm 1969
428 - số tử thi tìm trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam Hoa) - tháng 9 năm 1969
300 - số tử thi tìm trong đợt thứ tư, khu Phu Thu, tháng 11 năm 1969
100 - số tử thi tìm thấy các nơi trong năm 1969
1.946 - mất tích (tính đến năm 1970)" (7)
Hình Thảm sát Huế
- Trong 28 ngày Cộng quân chiếm đóng thành phố Huế đã sát hại nhiều người rất hãi hùng. Riêng thường dân bị hại khoảng 7.000 người, trong đó có 844 tử thương và khoảng 1.900 bị thương vì bom đạn, và số người mất tích đã tìm được khoảng 2.800 tử thi từ các hầm chôn tập thể ở tản mác khắp nơi trong thành phố. Sau đấy, đồng bào còn tìm được 19 địa điểm khác do Việt cộng giết hại và chôn rải rác khắp thành phố Huế. Có nhiều người dân bị xử tử tại Gia Hội, các nạn nhân bị giết hại gồm cả người già, phụ nữ và trẻ em. (6)
5- Kinh tế mới
- Mang trong mình nhiều bệnh tật, nhưng bà Hứa Thị Thanh (sinh năm 1950, ở xóm 11 xã Tân Ninh, Triệu Sơn, Thanh Hóa) đang phải một mình nuôi người mẹ chồng 90 tuổi bị mù lòa, cùng với người chồng và hai người con gái bị tâm thần. Bà bảo, nhiều lúc bà muốn chết đi, nhưng nhìn cảnh chồng con, mẹ già và cháu gái tội nghiệp lại không đành, và cũng không cho phép bà chối bỏ trách nhiệm với gia đình. Ngày trước, sống trong cảnh bom rơi đạn nổ bà không sợ, vẫn tươi cười nghĩ đến tương lai. Còn bây giờ trước mắt bà, cuộc sống thật tăm tối…
6- Chiến dịch trả thù Quân Cán Chính VNCH
- Tên đồ tể ĐM đã tuyên bố: Với khẩu hiệu "thà giết lầm hơn bỏ sót" (Đỗ Mười?).
- Nguyễn Hộ: "Chiếm được Sài Gòn, nhà của Ngụy ta ở, vợ của Ngụy ta lấy, con cái Ngụy ta bắt làm nô lệ, Ngụy Quân, Ngụy Quyền ta sẽ tống vào trại cải tạo cho đến chết mới thôi" (Nguyễn Hộ, Ủy viên quân quản Sài Gòn).
- Dương Thu Hương: "Ôi! man di mọi rợ đã thắng văn minh". Trong khi đó, người dân miền nam đóng cửa ngồi trong nhà, hay mẹ già ôm lấy xác con ngoài đầu ngõ cho những dòng nước mắt rơi! Tình cảnh này có diễn đạt niềm vui của hòa bình chăng? Hay nó là một nghịch lý của Hòa Bình, của hết chiến tranh?
Không. Nó không phải là nghịch lý của Hòa Bình, của kết thúc chiến tranh. Nhưng nó là sự thực hành bài học khắc cốt ghi tâm theo gương đạo đức Hồ chí Minh, một thứ đạo đức đã tàn phá đất bắc, nay chúng đem vào nam theo khẩu lệnh:" Chiếm được Sài Gòn, nhà của Ngụy ta ở, vợ của Ngụy ta lấy, con cái Ngụy ta bắt làm nô lệ, Ngụy Quân, Ngụy Quyền ta sẽ tống vào trại cải tạo cho đến chết mới thôi" Như thế, với những tư tưởng và hành động man di mọi rợ mà Việt cộng mang vào trong Nam là máu của người Việt Nam không những chỉ tuôn chảy trong cuộc chiến, nhưng còn là những ngày tháng sau đó. Bởi vì: Cuộc chiến Quốc- Cộng đã chấm dứt vào ngày 30-40-1975. Nhưng nó không bao giờ là biểu tượng, hay mang lại một cuộc Thống Nhất và Độc Lập cho Dân Tộc như Vua Quang Trung xưa đã làm. Trái lại, là cả nước ngậm ngùi trong tủi nhục dưới nanh vuốt nô lệ do Việt cộng và Tàu cộng áp đặt. Nó là cuộc chiến mà tập đoàn Việt gian cộng sản Minh, Đồng, Chinh, Duẩn, Giáp, Thọ… đã hãnh diện với thành tích chia đôi đất nước rồi làm cho hơn 3 triệu người Việt Nam mất mạng. Và sau đó có hàng triệu triệu gia đình ly tán, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi. Ra đi tìm đường sống nơi xứ người. (8)
Để đánh dấu chuỗi đau thương mà Quân Cán Chính VNCH đã phải gánh chịu, tác giả với bài thơ sau đây đã nói lên điều đó:
*
Miền đất bạc
Tác giả: Nguyên Thạch
Mùa thu cũ nhớ ngày anh lặng lẻ
Tôi viết bài thơ lời tưởng niệm tặng anh.
Ngày ra đi không tiếng trống, không nhạc quân hành.
Thảm cỏ úa vài chiếc lá xanh làm phúng điếu.
Anh ra đi không mang theo giấc mơ huyền diệu
Vỏn vẹn chỉ chiếc áo tù và manh chiếu phủ thân
Hai chiến hữu đồng tù còng lưng thương tiếc ân cần
Cũng kiệt sức trơ dần theo đói khát.
Mé rừng hoang, nơi anh nằm, miền đất bạc
Sỏi đá khô cằn tan tác thê lương
Bạn tù khiêng anh qụy ngã bên đường
Anh không nặng nhưng hai thân gầy xương khiêng sao nỗi.
Sức kiệt đất cằn bốn tay gầy xới vội
Huyệt không sâu
U uẩn một lối về
Ngày anh đi, không con cháu không hôn thê
Âm thầm cô lẻ nẻo đường quê từ biệt.
Nước mắt hai bạn tù đã đuối mòn cạn kiệt
Gió vi vu thương tiếc thoảng mênh mang
Anh ra đi hồn lẻ nhập suối ngàn
Đâu còn nữa thênh thang đường Tổ Quốc.
Chiều Việt Bắc dòng đời trôi tất bật
Khối nhân gian vẫn vờ vật với đời
Giã biệt anh, người bạn tù ơi.
Theo sau linh cữu chỉ đất trời gió lộng.
Chuyến viễn du ngàn thu nhưng trong tôi anh vẫn sống.
Để nói lên sự hung tàn sắc máu của chế độ, tác giả xin mượn 4 câu thơ của tên văn nô Tố hữu để nói lên chủ trương và mục đích của đảng CSVN.
"Giết! Giết nữa bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sit-ta-lin bất diệt!"
40 năm dòng thời gian nghiệt ngã đã trôi qua, nó mang theo vô vàn thống khổ của một dân tộc đã bị đọa đày. 40 năm dài dân tôi đã kéo lê cuộc đời trong củng cực của lầm than khốn khó, chìm ngập trong hố thẳm đoạn trường... Thượng Đế hỡi, Việt tộc còn gánh chịu đến bao giờ?.
Ơi Thượng Đế
Tôi ở bên này, trông ngóng Quê Hương
Quê Hương tang thương muôn ngàn tuyệt vọng!
Đâu những lối đi?
Đâu nẻo trở về?
Chập chùng ngàn khơi bên kia bạc trắng
Trĩu áng mây đen
Vạt nắng lạc loài
Chiều trông biển Thái trùng dương mù thẳm
Em ở bên nhà còn nắng ấm không?
Nghe xót xa lòng, môi trầm muối mặn
Vọng ngóng chờ nhau nối một nhịp cầu.
Đường trần bể dâu
Tìm đâu một hướng
Mẹ đã già nua
Sức yếu hơi tàn
Sáng ra biển, vọng xa mẹ hát
Một đảng vong nô
Một lũ bội tình
Cúi gục đầu nhận chữ nhục vinh
Thân run khóc, khóc cho tình đất mẹ…
Quê hương ơi, hôm nay tôi sẽ
Bước chung đường, dẫu đường buồn tẻ cô đơn
Nung nấu con tim
Nuôi chí căm hờn
Noi gương Quốc Tổ giang sơn gìn giữ.
Không là con hoang
Quay lưng lìa xứ
Bỏ mặc Quê Hương nhục nhã ê chề
Bao nhiêu năm dài
Một lũ u mê
Ảo vọng miên man...
Lạc lối đi về.
Một đám kên kên
Một bầy quạ đỏ
Chúng biến quê hương, thành xó điêu tàn.
Xương gầy bọc da, một đàn em bé
Mười bốn bán dâm, thành kẻ không hồn
Đời đầy hố chôn oan khiên nghiệt ngã
Lê bóng ma trơi, vất vưởng không nhà…
Ngài mãi nơi đâu?
Ơn cao Thượng Đế
Cứu giúp dân tôi trong cuộc sống này
Mau cứu quê tôi thoát cảnh đọa đày…
________________________________
Ghi chú: