Nguyễn Thành Trí (Danlambao) - Giống như đa số những xã hội hiện đại tiến bộ, chính phủ của ba nước Việt-Miên-Lào đã và đang xây dựng xã hội của họ theo một mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa, trên lý thuyết có điểm nhấn mạnh bảo đảm chấm dứt mọi hình thức áp bức bất công. Vì vậy Nhân Quyền của người Đồng Tính phải được chính phủ của ba nước Việt-Miên-Lào tôn trọng và bảo vệ theo luật pháp của họ, nếu có những khía cạnh pháp lý xét ra đã bị lạc hậu, thì họ phải tu chính cho thích đáng. Cuộc cách mạng ở ba nước Việt-Miên-Lào phải được hiểu đúng nghĩa của nó là đem lại sự bình đẳng cho mọi người dân trong nước, và sự bình đẳng của người đồng tính có tất cả các quyền như mọi công dân khác. Đó là Nhân Quyền cũng như các quyền Tự Do Chính Trị của người Đồng Tính cho họ được Bình Đẳng Thực Sự Để Làm Người Chân Thật.
Tuy nhiên, trong xã hội ở ba nước Việt-Miên-Lào vẫn còn nhiều giới hạn pháp lý đã đang được áp dụng trên những hoạt động của người đồng tính. Những luật lệ được duy trì tình trạng bất công, không bình đẳng đối với người đồng tính đã và đang bị kỳ thị, phân biệt đối xử. Giới chức cầm quyền quản trị xã hội ở ba nước Việt-Miên-Lào vẫn còn giữ chặt những quan niệm truyền thống gia tộc phong kiến và các giá trị luân lý bảo thủ đã từng không xem trọng người đồng tính như những con người có giá trị như mọi người. Hãy nói cho rõ hơn là họ đã đang có thái độ ghê tởm, xa lánh, kỳ thị người đồng tính và người chuyển giới tính.
Khi cơn khủng hoảng của bệnh liệt kháng HIV Si-đa bùng nổ vào hai thập niên 1980-1990, chính phủ của ba nước Việt-Miên-Lào chỉ đối phó cầm chừng trong các biện pháp ngăn chặn từng lúc sự nghiện hút và chích ma túy, nhưng họ đã bỏ qua không đề cập tới và không chữa trị, ngăn chặn những kiểu cách của căn bệnh liệt kháng HIV Si-đa lây lan, truyền nhiễm qua đường tình dục của những người đồng tính. Nói chung đây đúng là thái độ ghê tởm, xa lánh, kỳ thị người đồng tính và người chuyển giới tính trong xã hội của ba nước Việt-Miên-Lào.
Trong quá khứ những đám cưới của người đồng tính đều bị giới cầm quyền địa phương chỉ trích và ngăn cấm. Trên các phương tiện thông tin tuyên truyền của nhà nước quản lý đều có luận điệu kết tội đồng tính luyến ái là một “điều tội lỗi”, một tệ nạn xã hội. Ngay cả Bộ Xã Hội, Lao Động và Thương Binh của Việt Nam cũng đã lên tiếng than phiền rằng những người đồng tính và người chuyển giới tính đều có “tính nết kỳ quặc” đã đang xâm nhập vào những kỹ nghệ du lịch, khách sạn, tiệm ăn và quán bar, hộp đêm, câu lạc bộ. Họ đã kết tội những người đồng tính và người chuyển giới tính làm cho lây lan qua đường tình dục bệnh liệt kháng HIV Si-đa, những bệnh truyền nhiễm, làm gia tăng việc hút và chích ma túy, và mãi dâm.
Đến thập niên 2000 khi tỉ lệ người đồng tính bị lây nhiễm HIV Si-đa đã tăng cao 20% một cách đáng sợ thì lúc đó giới cầm quyền Việt Nam mới đồng ý thêm những người đồng tính vào danh sách những nhóm công dân cần được giáo dục sự hiểu biết về bệnh liệt kháng và siêu vi khuẩn HIV, và gia tăng biện pháp ngăn chặn. Chính nhờ vào sự thay đổi chính sách của giới cầm quyền đã thực sự làm khởi động tổ chức một phong trào đoàn kết người đồng tính hiểu biết được những quyền lợi căn bản của họ phải có. Những chương trình giáo dục về giới tính, sự hiểu biết về bệnh liệt kháng và siêu vi khuẩn HIV, sự hiểu biết về phòng bệnh và ngăn ngừa lây nhiễm, chính là những nơi đã tạo cơ hội cho người đồng tính và người chuyển giới tính gặp mặt nhau để bắt đầu xây dựng nên một cộng đồng người đồng tính và chuyển hệ có tổ chức mà giới cầm quyền phải công nhận. Họ không phải như trước đây phải lén lút che đậy ở trong những hộp đêm, quán bar hay câu lạc bộ trá hình. Những người đồng tính và chuyển giới tính đã không còn lo sợ, đã mạnh dạn, hãnh diện bước ra ánh sáng trong một xã hội bình đẳng có mọi người khác không kỳ thị, không phân biệt đối xử với họ.
Trong hai thập niên 1990 và 2000 các hệ thống tư pháp, hộ tịch ở ba nước Việt-Miên-Lào đã không quan tâm tới những vấn đề pháp lý của những người đồng tính. Vì họ có quan niệm rằng đây là một tệ nạn xã hội, nên họ thường lên án, kết tội những người đồng tính hơn là có giải quyết theo pháp luật một cách thích đáng theo sự hiểu biết là người đồng tính và người chuyển giới tính cũng có Quyền Con Người căn bản của họ. Bởi vậy, khi giới cầm quyền của ba nước Việt-Miên-Lào đã quyết định xoay chiều theo hướng chấp nhận các vấn đề của người đồng tính và chuyển giới tính đã từng có xảy ra trong xã hội, thì sau đó họ cũng đã gián tiếp gây ra một tình trạng bối rối, lúng túng trong các tòa án dân sự khi có những tranh tụng liên quan tới quyền giám hộ con, quyền chia tài sản, và quyền thừa kế tài sản của một cặp Vợ-Chồng-Đồng-Tính đã ly dị. Đây rõ ràng là những vấn đề pháp lý rất phức tạp của người đồng tính và người chuyển giới tính, nhưng không phải vì vậy mà giới cầm quyền quản trị xã hội cứ bỏ rơi, mặc kệ họ. Lẽ tất nhiên người đồng tính và người chuyển giới tính có Quyền Con Người căn bản của họ mà không ai có thể phủ nhận được.
Trên thực tế ở ba nước Việt-Miên-Lào đã có Luật Hôn Nhân và Gia Đình, nhưng các giới chức làm ra luật ở quốc hội đã không thể cứu xét, tu chính lại, và đồng thuận chấp nhận những dự luật nhằm giải quyết thỏa đáng cái tình trạng pháp lý mơ hồ, không rõ ràng có liên quan tới người đồng tính và người chuyển giới tính.
Cái tình trạng pháp lý mơ hồ như vậy cứ kéo dài, nên nó đã đang tiếp tục gây ra sự kỳ thị và phân biệt đối xử, ghét bỏ cả cộng đồng người đồng tính và người chuyển giới tính ở trong nước.
Cho mãi tới cuối năm 2014 giới cầm quyền nước Việt Nam mới cho phép những người đồng tính được chính thức kết hôn, nhưng họ vẫn chưa được hưởng những quyền lợi pháp lý về hôn nhân được thừa nhận như của những cặp vợ chồng nam-nữ khác trong xã hội. Mặc dù vẫn còn phải chịu nhiều giới hạn, những người đồng tính và người chuyển giới tính hiện nay có tiếp nhận được sự giáo dục hiểu biết rõ bản than, trở nên những cá nhân mạnh mẽ tự tin hơn để sống trong gia đình, trong cộng đồng có sự bao dung, và trong xã hội có tình thương con người với nhau.
Trong nhiều năm trước đây, những người chuyển giới tính cần phải được giải phẫu để sửa chữa, điều chỉnh cho đúng giới tính, và họ phải đi sang Thái Lan để thực hiện cuộc giải phẫu này, nhưng họ vẫn chưa được phép đăng ký hộ tịch nhận dạng giới tính nam nữ thực sự của họ. Trên thực tế hiện nay ở Việt Nam có phương tiện và khả năng kỹ thuật chuyên môn để thực hiện tốt các cuộc giải phẫu chuyển giới tính. Chỉ còn vấn đề pháp lý là giới cầm quyền có chấp thuận hợp pháp hóa lãnh vực y tế này để phục vụ cộng đồng người đồng tính và người chuyển giới tính hay không.
Bây giờ ở những xã hội của các nước Á Châu phải chấp nhận một tình trạng thực tế là họ đã đang có những cộng đồng người đồng tính và người chuyển giới tính với tư cách cá nhân mạnh mẽ hơn, có lòng tự trọng và tự tin hơn, có giáo dục hiểu biết hơn trước, có sức khỏe và có năng lực làm việc tốt. Họ có đầy đủ bổn phận và nghĩa vụ của người công dân tốt; như vậy nhân quyền của họ phải được chính phủ tôn trọng.
Trong một thời gian dài của quá khứ ở những nước cộng sản cai trị, những người đồng tính luyến ái đều bị ngược đãi thậm tệ vì họ bị kết án là thành phần cặn bã của xã hội tư bản cần phải bị hủy diệt. Trên thực tế ở ba nước Việt-Miên-Lào có những con đường gập ghềnh, không dễ dàng, không giống nhau để đi về hướng của Bình Đẳng Thực Sự cho người đồng tính và người chuyển giới tính ở trong nước. Trong những giải pháp khác nhau, họ đã thực hiện diễn biến hòa bình ở các xã hội của họ khởi đầu bằng kỳ thị, phân biệt đối xử, ngược đãi, trừng phạt, bỏ rơi, mặc kệ, từ chối nhân quyền của người đồng tính, không chấp nhận dân số của cộng đồng người đồng tính trong xã hội; tất cả các sự kiện vừa nêu ra đã đang diễn biến thay đổi thuận lợi, ôn hòa để người đồng tính và người chuyển giới tính được thực sự bình đẳng trong xã hội.
Hơn nữa, Việt Nam đã đang trở thành một lực lượng dẫn đầu trên mặt trận tranh đấu cho nhân quyền của người đồng tính, một sự Bình Đẳng Thực Sự cho cộng đồng người đồng tính và người chuyển giới tính ở trong nước so sánh với các nước cộng sản còn lại trong khu vực như Hoa Lục Tàu Cộng, Bắc Hàn, Miên, Lào; những nước mà giới cầm quyền của họ vẫn còn lưu giữ và thực hành những định kiến và luật lệ trấn áp người đồng tính luyến ái như trong quá khứ tiền cách mạng của họ đã từng làm.
Với trường hợp ông Đại Sứ Mỹ tại nước Việt Nam, ông Ted Osius là một người đồng tính với tư cách cá nhân là người vợ, đã lập gia đình với ông Clayton Bond, một người đồng tính khác có tư cách cá nhân làm người chồng. Cả hai đều là nhân viên cao cấp trong ngành ngoại giao Mỹ. Họ đã tổ chức đám cưới với sự chứng kiến của thân nhân và bà Chánh Án Tối Cao Pháp Viện Mỹ vào năm 2006. Cho tới nay cuộc hôn nhân của họ đã được mười năm rất đầm ấm hạnh phúc. Hiện nay họ đang nuôi dưỡng hai đứa con nuôi gốc người Mỹ La-tinh, một bé trai tên Tabo và một bé gái tên Lucy. Gia đình của ông Đại Sứ Mỹ Ted Osius là một gia đình người Mỹ hiện đại rất tiến bộ, gia đình hiệp chủng hòa hợp bởi vì Ted Osius và Clayton Bond bình đẳng thực sự, không có tình cảnh gia đình chồng chúa vợ tôi, Ted Osius là người Mỹ Trắng, Clayton Bond là người Mỹ Đen, hai đứa con nuôi là người Mỹ La-tinh da Nâu hiện sống trong một gia đình hiệp chủng hoà hợp rất tốt.
Ông Đại Sứ Mỹ Ted Osius đã từng tuyên bố rõ ràng là ông sẵn sàng giúp đỡ, yểm trợ, ủng hộ nhân quyền cho các cộng đồng người đồng tính và người chuyển giới tính ở Việt Nam cũng như ở các nước khác trong khu vực Đông Nam Á. Cũng có một khía cạnh xã hội và chính trị rất tế nhị ở trong nước Việt Nam, đó là Đảng Việt Cộng từ trước tới nay luôn luôn tuyên truyền hô hào xây dựng một xã hội theo mô hình xã hội chủ nghĩa chân chính, một nơi không có tình cảnh áp bức, bất công, người bóc lột người, người kỳ thị phân biệt đối xử người dưới mọi hình thức. Với những luận điệu tuyên truyền như vậy, Đảng Việt Cộng hiện tại là Độc Đảng độc tài đang cầm quyền cai trị đất nước, xã hội và người dân Việt Nam, hãy thực hiện những chính sách hòa hợp đúng đắn, tôn trọng nhân quyền của người dân Việt Nam cho mọi công dân đều Bình Đẳng Thực Sự Để Làm Người Chân Thật./.
Sài Gòn, Chủ Nhật 26/6/2016