Mai Thanh Truyết (Danlambao) - Trong quá trình lịch sử của Tàu và kinh nghiệm 1026 năm bị đô hộ trong suốt 17 thế kỷ lập quốc của Việt Nam, Trung Cộng, sau khi chiếm đóng Tân Cương năm 1949, khống chế Tây Tạng năm 1950, và bị chặn tại bán đảo Triều Tiên năm 1953, đã nghĩ tới Việt Nam như một vùng trái độn quân sự cần thiết. Trong tư thế thủ, ý định chiếm Việt Nam là để bảo vệ toàn cõi Trung Nguyên, và trong thế công thì bành trướng ảnh hưởng xuống vùng Đông Nam Á và ra tới một vùng biển dài trên 3000 Km ở phía Nam là biển Đông.
Nên nhớ, với sự tiếp sức của Liên Xô khi tiến hành Chiến tranh lạnh năm 1948 và mục tiêu của TC ngay từ những ngày đầu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do Mao sáng lập năm 1949 là nối tiếp nhiệm vụ của Hồ Chí Minh từ khi là cán bộ của Đệ tam Quốc tế được gửi về hoạt động tại Đông Nam Á từ năm 1924. Từ xa xưa, đảng Cộng sản Việt Nam tự nhận là mũi xung kích của khối Cộng sản xuống Đông Nam Á, mà việc gọi là giải phóng miền Nam chỉ là một kết quả tất nhiên mà thôi.
Vì vậy, đây chính là một trong nhiều nguyên nhân của cuộc chiến ý thức hệ làm cho CSVN khởi động gây nên cuộc chiến tương tàn làm kiệt quệ tiềm lực quốc gia với hơn năm triệu nạn nhân của cả hai miền.
Và trong hiện tại và với tâm khảm của một nước lớn, cộng thêm tính thuần phục của ĐCSVN, nhu cầu chiếm Việt Nam và lấn chiếm toàn bộ Biển Đông đã đang dần dần biến giấc mơ Đại Hán trở thành hiện thực.
1. Vị trí thực sự của Trung Cộng
Ngoài khái niệm hoang tưởng và với ý thức hệ tập trung thế giới dưới sự thuần phục của “Trung Quốc”, có một điều đôi khi chúng ta ít chú ý là đứng về mặt địa dư hình thể, TC chỉ là một "lục địa hải đảo" bị cô lập.
TC bị vây hãm từ cả bốn hướng. Giữa các sa mạc, thảo nguyên hoang vu cùng núi rừng hiểm trở tại ba hướng Nam, Tây và Bắc với biển Thái Bình Dương tại hướng Đông. TC chỉ có một đường bành trướng trên đất liền. Đó là miền Bắc nước Việt Nam. Lần cuối mà họ thử nghiệm giải pháp đó là vào năm 1979 khi Hà Nội chủ quan tưởng rằng mình đã đánh cho Mỹ cút lại còn vừa ký Thỏa ước Hợp tác và An ninh với Liên Xô vào năm 1978. Thế mà vẫn bị Tàu “dạy cho một bài học” do Đặng Tiểu Bình làm thầy giáo năm 1979.
Khi bức tường Bá Linh sụp đổ sau vụ khủng hoảng và tàn sát Thiên an môn năm 1989, mọi sự đều đảo lộn.
Khi khối Liên Xô bắt đầu tan rã, TC e sợ nội loạn nên tập trung kiểm soát hệ thống chính trị bên trên cơ chế kinh tế thị trường. Và lãnh đạo Hà Nội như kẻ mồ côi bị mất quan thầy. Vì vậy, việc cứu đảng CSVN là một ưu tiên sinh tử từ năm 1990.
Từ mốc thời gian đó, Hà Nội trở lại thần phục TC, chấm dứt 10 năm độc lập dưới bóng rợp Liên Xô và CSVN trở về thực tế quyền lực hiện tại (lúc bấy giờ) để tiến hành "đổi mới", nhưng theo mẫu mực Bắc Kinh.
Và TC trở lại xu hướng bành trướng cố hửu mà khỏi tốn quân, tốn tiền và vẫn đạt kết quả như ý: miền Bắc Việt Nam đương nhiên trở thành vùng trái độn quân sự kể từ thời điểm Hội nghị Thành Đô 3-4/9/1990.
2. Vai trò thái thú của ĐCSVN
Khi Bắc Kinh mở rộng vùng trái độn ấy ra biển Đông hải, thì Việt Nam lần lần trở thành ao nhà của TC.
Biển Việt Nam chỉ là biển Hoa Nam.
Lãnh đạo Hà Nội ý thức được việc đó, qua quyển sách (nội bộ) do nhà xuất bản sự thật xuất bản tựa đề “30 năm quan hệ ngoại giao Việt-Trung (1949-1979)” qua đó, BCT nhận định rõ ràng là TC luôn luôn tìm cách... nuốt trửng Việt Nam.
Nhưng ngay sau cuốc chiến 1979 và kéo dài đăng đẳng cho đến 1988, sau khi TC chiếm các đảo ở Trường Sa của Việt Nam, CSVN mới chịu quy phục TC và chấp nhận “16 chữ vàng và 4 tốt” để bảo vệ quyền lực đảng, và từ đó bảo vệ được quyền lợi của các đảng viên cao cấp.
Nếu có nói rằng họ bán nước để cứu đảng thì cũng không sai.
Hậu quả là mọi vấn đề TC của thế giới như đã trình bày ở trên đều đã xuất hiện tại Việt Nam, từ an ninh, ngoại giao qua môi sinh, kinh tế, giáo dục, y tế hay ngoại thương.
Như tác giả Vũ Đông Hà viết trên Danlambao: “Không cần phải đánh Việt Nam chúng nó!” với một trích đoạn như sau:"Súng đạn nào mãnh liệt bằng phong bì tống vào miệng chúng để sau đó Đại Hán ta ngồi ngay trên nóc nhà Tây Nguyên, đào mồ xới mả đất Mẹ của chúng, thải chất độc vào môi trường của chúng và Bộ chính trị của chúng vẫn khăng khăng đấy là chiến lược đã quyết, là chính sách công nghiệp hóa hiện đại đất nước không thể ngừng."
Thật hỗ thẹn cho một quốc gia đã từng có chủ quyền và được tôn trọng trên thế giới.
Nhưng đê tiện hơn nữa, “họ” vẫn múi mặt tiếp tục những biểu hiện nghiêm trọng hơn nữa là lập trường của Hà Nội lại rất thân TC trong các hồ sơ nóng của các quốc gia trên thế giới, nhất là việc Hà Nội tránh nêu vấn đề về Hoàng Sa hay Trường Sa trên diễn đàn quốc tế theo kiểu đa phương mà tìm giải pháp song phương theo quan hệ chủ tớ. Và hành động quy phục mới nhất là 15 ký kết của Nguyễn Phú Trọng trước mặt thiên hoàng Tập Cận Bình, báo hiệu sự cáo chung của Đất và Nước Việt Nam nếu ngày nào CSVN còn hiện diện và cai trị quê hương.
3. Vị trí của chúng ta hiện tại
Cần phải nói rõ là “chúng ta” là những người con Việt sống trong nước và hải ngoại tranh đấu cho một nước Việt Nam tự do. Đất nước và dân tộc Việt Nam đang gặp vấn đề với TC, có thể là nguy ngập hơn vì vị trí lân bang, nhưng cũng không khác nhiều quốc gia Á Châu ở chung quanh. Do đó, vấn đề TC của Việt Nam nằm trong khuôn khổ các vấn đề chung của thế giới với TC.
Khi nhìn như vậy, Việt Nam thật sự không còn đơn độc và phải một mình đương cự với TC đâu!
Nhưng, khác với trường hợp của các quốc gia kia, vấn đề TC của Việt Nam nằm trong tầng lớp lãnh đạo đảng CSVN. Vấn đề TC của Việt Nam nằm tại Hà Nội, là Hà Nội. Đấy là cái khó của dân tộc, một dân tộc dày dạn kinh nghiệm đối phó với TC và có thừa ý chí đấu tranh giành độc lập.
Vấn đề TC của Việt Nam nằm tại Hà Nội vì đảng Cộng sản đã giải giới người dân, tước đoạt võ khí truyền thống và mãnh liệt nhất của dân tộc là ý chí chống lại tình trạng Hán hóa.
Hà Nội tiến hành chính sách ngu dân qua:
- Kiểm soát báo chí và tư tưởng, đưa mọi người vào phản ứng phản xạ Pavlov của loài chó.
- Phát huy bản năng kinh tế của loại sinh vật hạ đẳng mà nhu cầu là “kiếm ăn ba bửa” và triệt hạ mọi ý chí và tiềm lực quật khởi.
Lãnh đạo Hà Nội hành xử như những quan Tiết độ sứ của Thiên triều Bắc Kinh giống như trong bốn thời Bắc thuộc, thậm chí như những quan Thái thú thời bị đô hộ. Họ đang làm xã hội băng hoại và đẩy người dân vào kiếp nô lệ cho một thiểu số đại gia của các nhóm lợi ích. Đó là những thái thú biết nói tiếng Việt của BCT và các Ủy viên Trung ương Đảng.
4. Chúng ta phải hành xử như thế nào trước vấn nạn Tàu trên?
Muốn giải quyết vấn đề TC, người con Việt cần phải giải quyết cái nhân khiến sức dân không được huy động vào nhu cầu bảo vệ nền độc lập, đó là đảng CSVN. Ưu tiên của Việt Nam vì vậy là phải tháo gỡ cách ách độ hộ của TC do Bộ Chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam đã tròng lên cổ người dân.
Tức là giải quyết đảng CSVN.
Hãy nghe một cựu đảng viên Lê Minh Đức của ĐCSVN “phản tỉnh”: “Thảm họa diệt chủng đã hiện ra trước mắt, không ai có thể cứu được dân tộc Việt Nam khỏi thảm họa này, ngoài 90 triệu người Việt. Mỗi người cần nhìn thấy cái chết đang đến với chính mình và con cháu mình...”
Đối với các quốc gia khác, Việt Nam phải là thành viên của một nỗ lực đa phương nhằm giải quyết vấn đề TC của thế giới. Khi cùng chung một mục tiêu, người ta có thể nói đến chuyện hợp tác, một cách bình đẳng vì lợi ích chung.
Tóm lại, vấn đề TC của thế giới phải do thế giới giải quyết và Việt Nam sẵn sàng tham gia như một thành viên. Nhưng Việt Nam sẽ không là mũi xung kích hay tiền đồn chống TC của thế giới.
Từ suy nghĩ đó, để chúng thấy hiện nay vẫn còn nhiều người ở hải ngoại đặt vấn đề Việt – Trung không đúng với tình trạng thực của thế giới hiện nay như:
- Việt Nam nên đứng bên cạnh Hoa Kỳ hay TC?
- Hoặc trong quan hệ song phương Mỹ-Hoa, Việt Nam nên ngả về đâu?
- Hay là Việt Nam nên khôn ngoan giữ vị trí trung lập?
Nhưng trên thực tế sự việc phức tạp hơn những gì xảy ra trong chiến tranh lạnh giữa hai khối cộng sản và tự do hay đúng hơn, giữa hai khối “tư bản thị trường” và “tư bản thị trường theo định hướng chủ nghĩa”.
Thực tế là TC có vấn đề với Hoa Kỳ, có vấn đề với Nhật Bản, có vấn đề với Ấn Độ, với các nước Đông Nam Á, với Nam Hàn, với Đài Loan, thậm chí với cả Úc Đại Lợi. Trong một mạng lưới quan hệ song phương chằng chịt đó, như Hoa-Mỹ, Hoa-Nhật, Hoa-Ấn, v.v...
5. Việt Nam đứng ở đâu?
Tất nhiên là đứng với người dân, ở vị trí độc lập, chứ không đơn giản là trung lập. Làm sao trung lập trong một quan hệ đa phương? Việt Nam sẵn sàng hợp tác với thế giới để giải quyết vấn đề TC trong những nỗ lực đa phương của quốc tế.
Nhưng trước hết phải giải quyết vấn đề TC của Việt Nam, hiện nằm tại Hà Nội.
Một khi người dân Việt ở trong và ngoài nước làm cho thế giới hiểu ra sự thể đó, rằng mối nguy của TC chính là Hà Nội và Hà Nội mới là vấn đề chứ không là giải pháp. Từ đó chúng ta đã tiến được một bước khá xa trên chặng đường bảo vệ nền độc lập quốc gia.
Vì vậy, đấu tranh cho dân chủ và cho độc lập là hai mặt không thể tách rời của một sự thể sinh tử cho Việt Nam.
6. Kết luận
Chính vì cái thế liên hoàn chằng chịt và phức tạp giữa các quốc gia trên thế giới tùy theo quyền lợi của mỗi quốc gia giao tế, thí dụ như Hoa Kỳ “giao hảo” với mọi chính quyền độc tài, cộng sản, quân phiệt v.v… và mức giao hảo đó tùy theo tình trạng hiện có của mỗi quốc gia, cho nên việc nêu cao ngọn cờ “ảo” như tranh đấu cho “dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam (!)” khiến cho các quốc gia trên thế giới không hình dung được hiện trạng bi phẩn của dân tộc Việt dưới ách cai trị của CSVN, nhất là Hoa Kỳ với chính sách “chuyển hóa CSVN” bằng... con đường giáo dục (!)
Vì thế cho nên, khi nêu lên hàng loạt vấn đề về môi sinh, nạn hủy hoại nguồn nước, tình trạng cạnh tranh bất chính hoặc nguy cơ lũng đoạn xã hội xuất phát từ TC, ngoài sự bành trướng ngang ngược muốn biến Việt Nam thành một tỉnh phía Nam của Tàu… tất cả đã trở thành một sự kiện hiển nhiên đang xảy ra cho Việt Nam.
Chắc chắn lúc đó, các nước có thể quan tâm nhiều hơn đến lập trường dân tộc của chúng ta.
Muốn như vậy, ngay từ ý thức thì chúng ta nên là giải pháp hơn là một vấn đề cho các nước.
Câu hỏi nêu lên ở đây là mình đã tự chuẩn bị tư thế như vậy hay chưa?
Sau cùng, TC thật ra không mạnh như nhiều người thường nghĩ và còn gặp nguy cơ khủng hoảng, thậm chí tan rã, vì chiến lược phát triển của họ không bền vững, không cân đối và có đầy bất công với 600 triệu dân Tàu đang có mức sống dưới nghèo đói và dưới nghèo đói tuyệt đối dựa theo tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc US$2.00 và US$1.25/người/ngày.
Một khi nước Tàu có loạn như đã từng thấy nhiều lần trong lịch sử, Hà Nội, với chính sách cai trị hiện tại, hơn 93 triệu người con Việt chắc chắn sẽ không để yên cho ĐCSVN đâu! Một nhà chính trị học, TS David Shambaugh đã nhận định trong cuốn sách của ông viết vào năm 2014, rằng: “Khả năng TC vẫn chỉ là một “cường quốc từng phần”, chứ không thể nào là một cường quốc thực sự trong tương lai.”
Trong chiều hướng suy luận như trên, tất cả con dân Việt cần nên suy nghĩ về “Những việc cần phải làm” cho một Việt Nam Tương Lai.
10.04.2017