Tháng Ba, 1982
Theo báo cáo vào năm ngoái của Ân xá Quốc tế, chính phủ Việt Nam đã thừa nhận rằng cho đến 40.000 người đã bị giam cầm trong các trại cải tạo ở miền Nam Việt Nam sau ngày cộng sản chiếm miền Nam vào tháng Tư 1975. Tuy nhiên những nhóm lưu vong đã đưa ra con số những người bị giam cầm cao hơn rất nhiều.
Được biết không một ai trong số những người bị giam cầm này đã được xét xử ở tòa án pháp luật và chỉ một vài người nghe nói là đã được thả ra trong những năm vừa qua. Đáp lại Giác thư Ân xá Quốc tế vào tháng Chín 1980 về thủ tục luật pháp của việc giam cầm, chính phủ Việt Nam giải thích rằng " cải tạo không có kết án tòa án là một chế độ cực kỳ nhân đạo mà rất có lợi cho họ (tù nhân), so với chế độ xử án trước tòa án thông thường." Nhà cầm quyền Việt Nam giải thích thêm là " theo cách nghĩ của người Việt không có kết án tòa án là tránh cho đương sự một lý lịch tư pháp xấu mà có thể ảnh hưởng xấu đến cả đời họ và đời con họ, đặc biệt trong những vấn đề liên quan đến hoạt động nghề nghiệp của đương sự: chẳng hạn, cha phó bị giam cầm sau khi thả ra thì không thể nào giảng đạo. Chế độ trong các trại cải tạo khác với chế độ trong các nhà tù, và thời gian mất tự do cũng ngắn hơn."
Về miền Bắc Việt Nam, số tù chính trị hoặc là trong các trại cải tạo hay trong các nhà tù không bao giờ được công bố. Có nhiều báo cáo về nhiều người vẫn còn bị giam cầm từ những năm 1950 và 1960. Nguyễn Chí Thiện là một trong số những người bị giam cầm này. Ông là nhà thơ và bị bắt lần đầu vào năm 1959 vì tội nói xấu chế độ. Ông được cho là đã trải qua hai mươi năm cuộc đời mình tại nhiều trại tù khác nhau. Vào năm 1979 tuyển tập gồm có 377 bài thơ được đưa lén ra khỏi miền Bắc Việt Nam. Trong lá thư đính kèm, được chụp lại ở đây, ông khẩn cầu thế giới bên ngoài tố cáo những điều kiện trong các trại tù mà bản thân ông trải qua và tả lại trong thơ ông. Không ai biết số phận hay chỗ ở hiện nay của Nguyễn Chí Thiện. Những bài thơ này lần đầu tiên được xuất bản trong tác phẩm Tiếng Vọng Từ Đáy Vực...
*
Thư đính kèm của Nguyễn Chí Thiện:
Thưa ông!
Nhân danh hàng triệu nạn nhân vô tội của chế độ độc tài, nhân danh những người đã ngã gục và nhân danh những người đang chết mòn và đau đớn trong các nhà tù cộng sản, tôi mong ông hãy xuất bản những bài thơ này trong quốc gia tự do của ông. Những bài thơ này là thành quả của hai mươi năm trời làm việc của tôi, và hầu hết những bài thơ này đều được viết ra trong những năm tù đày. Tôi nghĩ chính chúng tôi, chứ không phải ai khác, phải tố cáo cho thế giới thấy bao đau khổ không thể nào tin nổi của nhân dân chúng tôi bị áp bức và bị hành hạ.
Cuộc đời tan nát của tôi chỉ còn lại một giấc mơ là mơ thấy càng ngày càng rất nhiều người tỉnh thức trước sự thật là cộng sản là tai họa lớn nhất đối với nhân loại.
Xin ông chấp nhận lòng biết ơn chân thành sâu sắc nhất của tôi cũng như của những đồng bào kém may mắn của tôi.
Nguồn: Dịch từ tạp chí Index On Censorship số ra tháng Ba năm 1982. Tựa đề của người dịch.
Người dịch: