Virginius Dabney- Appomattox * Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch - Chỉ cách đây chín mươi năm, vào ngày 9 tháng Tư, 1865, cuộc xung đột mà Winston Churchill gọi là "cuộc chiến tranh cuối cùng giữa những người quân tử" đã kết thúc ở Tòa án Appomattox.
Bây giờ những cánh rừng xanh và cánh đồng thuốc lá nhấp nhô bao quanh làng Virginia nhỏ bé ấy trông rất thanh bình. Những cây sồi phất phơ trong nắng và những nụ hoa dương đào căng đầy như thưở nào vào ngày Chúa nhật Lễ Lá bao nhiêu năm trước đây khi Quân đội Bắc Virginia dưới quyền Tướng Robert E. Lee đầu hàng Tướng Ulysses S. Grant. Vào ngày ấy tướng Grant của Liên bang đặt ra những điều kiện rộng lượng nhất mà lịch sử từng ghi nhận, những điều kiện mà sự can đảm và bao dung của chúng đã góp phần tái thống nhất một quốc đã bị cuộc nội chiến bi kịch chia cắt thành hai.
Ngày nay Appomattox trở thành nơi hành hương đối với nhiều người từ khắp nơi trên thế giới. Khi tòa án cũ bị cháy vào năm 1892 tòa án mới được xây lên cách đấy ba dặm gần tuyến đường sắt Nofolk & Western, và thành phố Appomattox mới thành hình nên từ đấy. Gần như cả ngôi làng mà tồn tại khi Lee đầu hàng đã được National Park Service khôi phục đúng y như khung cảnh vào thời ấy; công việc phục hồi nên hoàn tất trước lễ kỷ niệm bách chu niên vào mười năm tới.
Đây là ngôi nhà của Wilmer Mclean, nơi Grant và Lee gặp nhau để thảo ra những điều kiện đầu hàng, đã được trùng tu. Một lữ quán cũ, trước kia là nơi dừng chân cho những chuyến xe ngựa chở khách đi miền tây, giờ đây là viện bào tàng những hiện vật của cuộc đầu hàng. Gần đấy là nhà tù làng cũ và tiệm tạp hóa nhỏ, cùng với một số nhà dân cư trước nội chiến. Với sự trùng tu tòa án cũ đã bị cháy, mà có thể không được hoàn thành trong mười năm, Appomattox sẽ là ngôi làng thế kỷ thứ mười chín duy nhất được trùng tu ở Mỹ.
Chính Tướng Grant bốn mươi hai tuổi, điềm tĩnh, lạnh lùng, con của người thợ thuộc da, cuối cùng đã khuất phục được Miền Nam. Sau khi ông buộc quân Miền Nam phải đầu hàng ở Vicksburg và nhờ vậy cắt Miền Nam thành hai bằng cách kiểm soát sông Mississippi, Grant được Tổng thống Lincoln giao phó trọng trách đánh tan Quân đội Bắc Virginia và chiếm Richmond.
Địch thủ của ông, Tướng Lee, râu tóc bạc phơ ở tuổi năm mươi bảy, là tư lệnh quân đội lỗi lạc nhất trong cuộc chiến, một con người về mọi phương diện đều xứng đáng với truyền thống tổ tiên cao quý. Miền Nam tôn thờ nhà lãnh đạo quý tộc giọng trầm này; Miền Bắc sợ và kính trọng ông.
Vào tháng Ba 1865, tuy bị áp đảo về số lượng và bị suy yếu trước sự tấn công mãnh liệt dồn dập của các lực lượng của Grant nhưng Lee vẫn tuyệt vọng cố gắng giữ các tuyến phòng thủ trước Petersburg. Rồi đến Trận Five Forks đại bại, và cả Petersburg lẫn Richmond đều thất thủ. Rồi quân đội Miền Nam chủ lực còn lại cuối cùng bắt đầu cố gắng chạy thoát về miền tây. Rồi lại đại bại tiếp ở Sayler's Creek đã đưa những người lính miền Nam đói và hốc hác đến gần Tòa án Appomattox. Nhiều người lính mắt thâm quầng, mệt lử này nhiều ngày qua đã không có gì ăn ngoại trừ những nắm bắp họ có thể ăn bớt từ đồ ăn dành cho ngựa và lừa mà cũng ốm đói như chủ.
Một người lính phiến loạn miền Nam rách rưới và quá đói đang đi tìm gà lạc thì bị quân lính Liên bang ăn uống đầy đủ bao vây.
"Đầu hàng đi thôi, chúng tôi bắt được anh rồi!" họ la to.
"Tôi đầu hàng," người lính miền Nam đáp, "còn các ông lại bắt được một kẻ thật chẳng đáng gì!"
Mưa tầm tã đã biến cả vùng thành đầm lầy, và quân của Lee hầu như không thể nào di chuyển được. Nhận thức rõ điều này, lực lượng Liên bang dưới sự lãnh đạo của kỵ binh của Sheridan đã nhìn thấy cơ hội. Sau những cuộc hành quân bắt buộc mà đòi hỏi lính và ngựa phải gắng hết sức mình họ hoàn toàn bao vây quân của Lee và đập tan hy vọng cuối cùng của quân miền Nam muốn tháo chạy đến gia nhập lực lượng của Tướng Joseph E. Johnston ở North Carolina.
Lee thấy hoàn cảnh tuyệt vọng của mình.
"Tôi không còn có gì để làm nữa ngoại trừ phải đi gặp Tướng Grant thôi," ông nói, "nhưng tôi thà là chết một ngàn lần."
Ông gởi thư cho Grant, và yêu cầu thư ký quân đội, Đại tá Charles Marshall, chọn một nơi thích hợp cho cuộc hội nghị liên quan đến những điều kiện đầu hàng.
Trong lúc chờ thư của Grant, Lee ngồi nghỉ dưới cây táo ở tòa án đối diện với sông Appomattox. Ông mặt quân phục rất oai nghiêm với thanh gươm đẹp và túi lụa đỏ. Khi nhận được thư hồi đáp ông leo lên con ngựa nổi tiếng Traveler của mình và đến nơi hẹn đã được chọn.
Lee và Marshall đến trước Grant. Khi Grant đi vào một cách vội vàng ông vẫn còn mặc trên người bộ đồ trận lấm bùn, vì ông không muốn để Lee phải chờ.
Hai người đã gặp nhau lần cuối cách đấy mười bảy năm khi cả hai còn là sĩ quan trong cuộc chiến tranh Mexico. Cuộc trò chuyện quay sang thời ấy, và Grant mải mê chuyện trò đến nỗi Lee phải nhắc Grant rằng họ gặp nhau để bàn về việc Quân đội Bắc Virginia đầu hàng.
Grant ngay lập thức đề nghị rằng những sĩ quan và binh lính nào hứa danh dự không cầm vũ khí chống lại Hoa Kỳ được phép trở về nhà.
"Điều này sẽ khiến cho quân đội tôi rất vui," Lee nói, vì ông thấy lính ông sẽ không bị áp giải đến nhà tù.
Rồi Grant hỏi Lee có đề nghị gì không và Lee hỏi những kỵ binh và pháo binh quân miền Nam, tất cả họ đều làm chủ những con ngựa họ dùng trong chiến tranh, có được phép đưa ngựa họ về lại nhà họ để cày cho vụ xuân tới không. Tổng tư lệnh quân đội Liên bang đồng ý ngay.
Lee lại bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc.
Trong khi những điều kiện đầu hàng được ghi ra giấy và sự chấp nhận những điều kiện đầu hàng được thảo ra Grant giới thiệu với Lee những vị tướng Liên bang đứng phía sau mình. Rồi Lee bảo Grant rằng ông có 1000 tù binh Liên bang nhưng ông không có lương thực cho họ vì ngay cả lính ông cũng chẳng còn lương thực. Tướng tư lệnh miền Bắc, nghĩ tướng địch quân miền Nam vẫn còn chỉ huy đến 25.000 quân (con số này cao hơn thực tế nhiều), liền hứa cung cấp 25.000 phần ăn cho quân miền Nam. Lee chấp nhận sự giúp đỡ này với lòng biết ơn chân thành.
Khi Lee đi ra mái hiên vài sĩ quan Liên bang đứng bật dậy chào. Tướng tư lệnh quân miền Nam chào lại. Khi Lee đã lên con ngựa Traveler, một chút sau, Grant cũng sắp lên ngựa của ông thì ông bất ngờ đứng lại và giở mũ ra để tỏ lòng kính trọng. Những sĩ quan Liên bang khác cũng làm theo. Lee nhắc mũ lên đáp lại, rồi phi ngựa quay về để bảo binh lính ông rằng chiến tranh đã kết thúc.
Tin về cuộc gặp gỡ với Grant đã lan truyền ra, cho nên khi lính của Lee thấy ông phi ngựa trên con đường đất đỏ về hướng họ họ liền xúm quanh lại hai bên đường, nôn nóng hỏi có phải quân đội miền Nam đã đầu hàng chăng. Giọng ông run run và mắt ông đẫm lệ, Lee bảo họ cuộc chiến đã tàn.
Người thì bàng hoàng; kẻ thì thề họ sẽ quyết đánh đến cùng, nếu chỉ cần ông ra lệnh. Những người đã trải qua khói lửa cuộc tấn công của Pickett ở Gettysburg, những người đã chịu đựng không nao núng cuộc tàn sát ở Spottsylvania Courthouse, giờ đây đều khóc công khai.
Khi Lee chạy dọc theo con đường về tổng hành dinh các sĩ quan và lính hoan hô hình ảnh thân quen của vị tư lệnh của mình, rồi họ bắt đầu bật khóc khi họ thấy ông không thể nào chế ngự được cảm xúc của ông.
Khi Lee về đến lều các sĩ quan và lính chen nhau đến gặp ông để nói lời chia tay. Giọng run run ông dặn dò họ nhiều lần là hãy đi về nhà, gieo trồng cho vụ mùa, và tuân thủ luật pháp.
Ngày hôm sau, 10 tháng Tư, đại tá Marshall thảo ra bài diễn văn cao cả "Từ biệt Quân đội Bắc Virginia", và sau khi Lee thay đổi đôi chút, bài diễn văn được đọc trước toàn quân.
Lee và Grant sau đấy có cuộc hội đàm khác trên một ngọn đồi nằm ở giữa hai chiến tuyến, tại đây họ trò chuyện thân thiết trong hơn nửa giờ và thảo luận về việc ân xá cho những lính quân đội miền Nam và tương lai của miền Nam.
Trên đường quay về tổng hành dinh Lee bất ngờ gặp Tướng George G. Meade, tư lệnh Quân đội Potomac của miền Bắc, người đã phi ngựa đến thăm ông.
"Ông làm gì mà râu tóc bạc nhiều vậy?" Lee hỏi tướng miền Bắc có mũi khoặm.
"Chính ông đã làm cho râu tóc tôi bạc nhanh đến thế," Meade cười đáp.
Vào ngày 11 tháng Tư hai bên đã thảo ra kế hoạch cuối cùng cho việc ân xá và đầu hàng. Ngày hôm sau tàn quân của Quân đội Bắc Virginia kiêu hùng với Tướng Gordon dẫn đầu đi dọc theo đồi về hướng Tòa án Appomattox. Ngay trước khi họ đến làng họ thấy hai lữ đoàn quân Liên bang đứng thành hàng dọc theo hai bên đường dưới sự chỉ huy của Tướng Joshua L.Chamberlain, người được trao Huân chương Danh dự của Quốc hội vì đã chiến đấu anh dũng ở Gettysburg.
Khi quân miền Nam đi ngang qua, những người lính Liên bang bồng súng chào và những người lính miền Nam chào lại. Hết sư đoàn này đến sư đoàn khác bỏ vũ khí xuống thành từng đống và cũng bỏ xuống những lá cờ trận bị đạn bắn rách tả tơi.
"Về phần chúng tôi, " Tướng Chamberlain về sau nói, "thì không một tiếng kèn cũng chẳng một hồi trống; không một lời mừng vui cũng chẳng một lời thầm thì về hư vinh của chiến thắng... mà đúng hơn là sự im lặng thành kính, và nín thở, như thể trước mắt mình là người đang chết."
Tướng Lee vẫn ở trong trại cho đến khi nghi lễ đầu hàng xong. Trong lúc những người lính chán nản của ông trông ngóng về hướng quê nhà thì ông bắt đầu lên đường về Richmond. Tư lệnh Liên bang khăng khăng cho một đoàn hai mươi lăm kỵ binh đi theo tiễn đưa ông mấy dặm đường.
Grant đã rời Appomattox trước khi những người lính miền Nam giao nộp vũ khí và cờ. Ông không muốn chứng kiến kết cục bi thương và tủi nhục của quân đội kiêu hùng mà ông đã đánh bại.
Ông và Lee gặp nhau một lần nữa vào năm1869, khi viên tư lệnh Quân đội miền Nam khước từ những đề nghị lợi lộc đủ loại để lui về làm hiệu trưởng trường đại học Washington khiêm nhường ở Lexington, bang Virginia. Lee ghé thăm Grant ở Tòa Bach Ốc (the White House) để bày tỏ lòng kính mến Grant.
Giống như Lincoln trước mình, Grant luôn luôn tìm cách "băng bó lại vết thương quốc gia." Vào thập niên đầu những năm 1880, nhiều năm sau khi Lee mất, Grant đóng góp 500 đô la cho công cuộc xây dựng Nhà dưỡng lão cho những người Lính miền Nam nghèo và bệnh tật ở Richmond, và vào năm 1884 nhận thấy rằng mình không thể nào tham dự hội chợ gây quỹ để xây nhà này, ông viết thư cho ủy ban tổ chức hội chợ vẫn với tinh thần hào hiệp mà ông đã thể hiện ở Appomattox gần hai mươi năm trước đấy:
"Tôi hy vọng hội chợ của quý vị có thể thành công, và mục đích như dự tính có thể nhận được sự ủng hộ mà sẽ cho tất cả những người lính can đảm mà cần một mái nhà sẽ có một mái nhà và chỗ nương thân để tránh mọi âu lo. Những người ngày xưa đối mặt trong cuộc chiến tranh một mất một còn giờ đây lại là những người bạn thân thiết nhất, và chỉ còn cạnh tranh với nhau để xem ai có thể là những công dân tốt nhất cho quốc gia vĩ đại nhất trên địa cầu này."
Nguồn: Dịch từ tạp chí Mỹ The Saturday Review số ra ngày 19 tháng Ba ,1955. Tựa đề của người dịch
8/05/2020