Thịnh vượng & Dân chủ - Dân Làm Báo

Thịnh vượng & Dân chủ

Sơn Nghị (Danlambao) - ...Thể chế chính trị quyết định tất cả mọi lãnh vực trong xã hội, kể cả sự sống còn của người dân. Tuy một vài thể chế độc tài bòn rút vẫn thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhưng chỉ trong ngắn hạn. Thể chế dân chủ bảo đảm một nền kinh tế bền vững - điểm then chốt ở đây là sự bền vững, lâu dài, và mãi mãi. Quyền lợi của nhóm bòn rút sẽ làm thui chột sức sáng tạo của người dân, gây bất bình và mâu thuẫn trong quần chúng. Một khi quần chúng bất mãn, nền kinh tế sẽ dẫn đến ba giai đoạn: chậm lại, ngưng trệ, và sụp đổ...

*

Trong một nền dân chủ, người nghèo sẽ có nhiều quyền lực hơn người giàu, bởi vì người nghèo chiếm đa số, và ý chí của đa số là tối thượng. Aristotle (385 BC - 323 BC)

Danh từ “Dân Chủ” bắt nguồn từ thời cổ Hy-lạp. Khái niệm “dân chủ” được khởi xướng bắt đầu năm 507 trước Công nguyên do Cleisthenes, một thủ lãnh của thành phố Athens. Cleisthenes đề nghị cải cách một hệ thống chính trị mới mẻ mang tên “demokratia,” bao gồm “demos” là dân, và “kratos” là quyền lực; gộp chung có nghĩa là “quyền lực của dân.” Nền dân chủ kéo dài được hai thế kỷ rồi chết yểu, và được thay thế bằng các thể chế khác. 

Hy Lạp chưa bao giờ là một quốc gia rộng lớn, ngay cả khi Alexander Đại đế xua quân chinh phục thế giới, thiết lập một đế chế trải dài đến tận Pakistan ngày nay. Nhưng di sản của người Hy Lạp lại rất quan trọng đối với lịch sử chính trị. Họ đã khai sáng khái niệm dân chủ và ghi chép chi tiết về nền cộng hoà phôi thai. Hai triết gia cổ Hy lạp Plato và Aristotle sinh ra vào thời kỳ khái niệm “dân chủ” phát triển và áp dụng tại Athens. Công trình của Plato và đặc biệt của Aristotle đã phát minh ra môn khoa học chính trị nhằm nghiên cứu chính thức các thể loại chính phủ. Những gì người Hy Lạp làm cho nền dân chủ và viết ra để lại cho hậu thế có tác động rất lớn đến thế giới phương Tây, và cuối cùng cả toàn cầu. Di sản dân chủ và cộng hoà Hy Lạp tồn tại qua bao thăng trầm và ảnh hưởng đến tư tưởng của giới khoa bảng mãi đến tận ngày nay.

Tư tưởng dân chủ bị chôn vùi và lãng quên qua các thời kỳ nông nô, lãnh chúa, phong kiến, quân chủ. Sau thời kỳ Phục hưng, tư tưởng dân chủ hồi sinh nhưng phải đợi gần một thế kỷ, các cuộc cách mạng biểu dương tinh thần dân chủ mới thành công, đặc biệt là hai cuộc cách mạng tại Hoa kỳ (1776) và Pháp (1789). Lý thuyết gia nổi tiếng về dân chủ John Locke (1632-1704), một triết gia – người tiếp nối tư tưởng dân chủ của Aristotle sau gần 20 thế kỷ – cổ võ sự bình đẳng chính trị, sự tự do cá nhân, dân chủ, và quy tắc đa số. Quan điểm của Locke đặt nền tảng triết học mạnh mẽ cho các lý luận và chính trị dân chủ sau này, mở đường cho những lý thuyết gia dân chủ khác như Montesquieu, David Hume, Thomas Jefferson, James Madison, Jean-Jacques Rousseau, Marquis of Condorcet, John Stuart Mill, Alexis de Tocqueville, John Dewey, Jurgen Habermas v.v... cổ xuý những quyền tự do căn bản của con người. 

Luồng gió tư tưởng dân chủ thổi vào phương Đông từ cuối thế kỷ 19, và Trung hoa là nước châu Á đầu tiên đón nhận nồng nhiệt. Học giả Lương Khải Siêu là một trong những người đầu tiên khởi xướng phong trào dân chủ ở Trung hoa. Năm 1895, ông tổ chức cuộc biểu tình đầu tiên yêu cầu các vua quan nhà Thanh trao quyền cho người dân tham gia chính trị ở Bắc Kinh. Một nhà chính trị khác, Tôn Dật Tiên, đề ra 3 nguyên tắc chính: dân tộc, dân chủ, và dân sinh, dẫn đến cuộc cách mạng Tân Hợi (1911), lật đổ chế độ phong kiến Mãn Thanh, thành lập nước Cộng hoà Trung hoa đầu tiên. Các sinh viên Trung hoa khao khát dân chủ, cùng với Trần Độc Tú đứng sau phong trào ngày 4 tháng 5 (thường gọi là Phong trào Ngũ Tứ), thành lập năm 1919, yêu cầu “tư tưởng Khổng Tử” nhường chỗ cho “tư tưởng Dân chủ” và “tư tưởng Khoa học.” 

Như thế, đừng nghĩ tư tưởng dân chủ là một “đặc sản” của nền văn minh Tây phương – như Amartya Sen, triết gia và kinh tế gia, đoạt Nobel Kinh tế năm 1998, đã khuyến cáo – nhưng cần hiểu “dân chủ” chính là biểu tượng cho các quyền tự do căn bản của bất cứ người dân nào được hiến pháp của quốc gia đó tôn trọng và bảo đảm, như Locke từng nói, "các quyền tự nhiên quan trọng nhất là Sống, Tự do và sở hữu Tài sản." Sau này, trong Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, các vị lập quốc đổi thành “quyền Sống, quyền Tự do, và quyền Mưu cầu Hạnh phúc.”

Đó là cái nhìn bao quát về “dân chủ,” còn quan niệm về “thịnh vượng” như thế nào? Thịnh vượng được hiểu như là sự thành công trong cuộc sống mà người ta thường nghĩ ngay đến tiền bạc, của cải vật chất; gọi chung là tài lộc hay giàu có. Mãi về sau, thịnh vượng có cái nhìn rộng lớn hơn, trên bình diện quốc gia hơn là một cá nhân, một gia đình. Dĩ nhiên, dân giàu thì nước mạnh, hay nói cách khác, nước giàu thì dân cũng giàu theo. Khái niệm thịnh vượng bắt đầu đề cập nhiều từ sau cuộc Cách mạng Kỹ nghệ vào hậu bán thế kỷ 18 (1760), mở ra một kỷ nguyên vàng son của chủ nghĩa tư bản, và phát triển mãi đến ngày nay. Sự giàu có và sung túc lớn dần của tầng lớp trung lưu ở các nước phát triển là một biểu tượng cho sự thịnh vượng. Ngày nay, thịnh vượng được hiểu sâu xa hơn – không chỉ đơn thuần là giàu có – mà còn bao gồm cả những phúc lợi xã hội như Hạnh phúc và Sức khoẻ. Nói chung, thịnh vượng gộp cả Phúc, Lộc, và Thọ.

I. Tương quan giữa thịnh vượng và dân chủ

Từ sau Thế chiến II, các cơ quan tài chính và tổ chức trên thế giới đặc biệt lưu tâm đến các nước chậm tiến. Sự tài trợ nhân lực và vật lực cho các nước nghèo qua nhiều hình thức nhằm thúc đẩy nền kinh tế của những nước này vươn lên và phát triển. Mới đây, nhóm Ngân hàng Thế giới thông báo sẽ tập trung vào hai mục tiêu bao quát trên toàn thế giới: (1) chấm dứt sự nghèo đói cùng cực vào năm 2030 và (2) thúc đẩy sự thịnh vượng chung. Muốn xoá đói giảm nghèo, điều kiện tiên quyết là quốc gia đó phải thịnh vượng, hay ít nhất nền kinh tế tiến triển.

Muốn nền kinh tế tiến triển các vị lãnh đạo quốc gia cần phải làm gì? Câu hỏi then chốt này là tiền đề dẫn đến sự nghiên cứu mối tương quan giữa “Dân Chủ” và “Thịnh Vượng,” bắt đầu từ khoảng đầu thế kỷ 20, và nở rộ sau Thế chiến II, khi các đế quốc trao trả độc lập cho các quốc gia đô hộ, chấm dứt thời kỳ thực dân. 

Sự xuất hiện về hai khái niệm “Dân Chủ” và “Thịnh Vượng” cách nhau hơn hai thiên niên kỷ. Thế mà các học giả – xã hội học, chính trị, kinh tế – lại liên kết chúng lại với nhau thành một phạm trù thật đặc thù: phạm trù Nhân Quả. Sự liên hệ chặt chẽ của hai khái niệm dẫn đến các nghiên cứu, biện luận, minh chứng cho lý thuyết của từng nhóm. 

Trong nhiều thập niên, bắt đầu từ giữa thế kỷ 20, giới ưu tú thuộc các Học viện và Đại học nổi tiếng phương Tây đã bỏ nhiều công sức để khảo cứu mối quan hệ đặc biệt này, và để tìm ra một đường hướng (hoặc công thức) cụ thể nhằm giúp các nước kém phát triển nhanh chóng xoá đói giảm nghèo. Ngày nay, hầu như không còn ai phủ nhận sự tương quan mật thiết giữa hai khái niệm này nhưng giới tinh hoa vẫn loay hoay xếp đặt chúng cái nào trước, cái nào sau. Cái có trước là “nguyên nhân,” dẫn đến cái sau là “hậu quả.” Như vấn nạn “con gà và quả trứng” của Mác, cái nào có trước? Giống như thế, Dân Chủ dẫn đến Thịnh Vượng hay Thịnh Vượng dẫn đến Dân Chủ? cái nào là Nhân, cái nào là Quả?


II. Thịnh vượng dẫn đến dân chủ

Quay ngược thời gian vào giữa thế kỷ 20, sau Thế chiến II, mở đầu thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Một trong những khuôn mặt nổi tiếng trong giới trí thức Hoa kỳ là Gs. Xã hội học Seymour Lipset thuộc Đh. Berkeley. Trang bị một tư tưởng xã hội gần giống như Trotsky, vào năm 1959 ông đề ra lý thuyết: dân chủ là kết quả của nền kinh tế thịnh vượng. Hay nói khác đi, một khi kinh tế phát triển, chính phủ sẽ tự động phải dân chủ hóa.

Khảo cứu của Lipset dựa trên 48 nước. Ông chia làm 2 nhóm: nhóm một gồm 28 nước Âu châu và các nước nói tiếng Anh, nhóm hai gồm 20 nước Châu Mỹ Latinh. Lipset nhận thấy lợi tức bình quân của người dân thuộc nhóm một cao gấp đôi trong 13 nước dân chủ vững vàng và 15 nước có nền dân chủ vừa phải và độc tài. Còn lợi tức bình quân của người dân thuộc 20 nước Châu Mỹ Latinh thua sút bất cứ quốc gia nào thuộc nhóm một. Phân tích sâu hơn trong nhóm hai, Lipset cũng nhận ra người dân thuộc 7 nước Châu Mỹ Latinh có nền dân chủ hoặc tương đối độc tài có lợi tức bình quân cao hơn 40% so với người dân thuộc 13 nước độc tài toàn diện trong nhóm hai. Ông nhận thấy các nước có nền kinh tế hiện đại – dẫn đến thịnh vượng và lợi tức bình quân cao – người dân được hưởng một nền dân chủ tự do đáng kể. Nhất là các nước Âu-châu, khi chuyển đổi từ chế độ quân chủ sang tư bản, người dân được hưởng một số quyền lợi thích đáng tượng trưng cho dân chủ. Quốc gia càng phát triển, tầng lớp trung lưu càng đông và lớn mạnh, họ dần dần có tiếng nói trong các nghị trường, và chính tầng lớp này đề ra những dân quyền làm nền tảng cho nền dân chủ. Trong khi tại các nước nghèo, sự độc tài toàn trị vẫn là yếu tố cốt lõi dẫn đến sự trì trệ kinh tế. Cuộc khảo cứu của Lipset dẫn đến lý thuyết: cần phải phát triển kinh tế và tự động chính phủ bắt buộc phải dân chủ hóa theo cho phù hợp với lòng dân. Lipset trình bày 2 sự kiện này trong tương quan Nhân Quả; trong đó Nhân chính là sự thịnh vượng kinh tế, và dẫn đến Quả là nền dân chủ của xã hội.

Vào hậu bán thế kỷ 20, hầu như ai cũng tin tưởng mãnh liệt vào mô hình của Lipset. Tóm tắt mô hình của ông như sau.


Chính mô hình này ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính sách đối ngoại của chính phủ Hoa kỳ vào thập niên 1960 & 1970. Nixon, muốn bắt tay với Trung cộng (gọi là Trung hoa Đại lục, khác với Trung hoa Dân quốc là Đài Loan) để chống Liên Xô, và hy vọng khi nền kinh tế thịnh vượng, Bắc Kinh sẽ bỏ chủ nghĩa cộng sản và dân chủ hóa theo đúng lý thuyết của Lipset. Thật ra Mỹ chẳng ưa hai nước cộng sản này, nhưng giữa hai cái xấu, chọn cái ít xấu hơn. Kéo một trong hai cái xấu về phía mình vẫn lợi hơn là để chúng đoàn kết chống lại mình. Hơn nữa, trong thời chiến tranh lạnh, cả hệ thống tư bản Tây phương đều nỗ lực chống Liên Xô. Một chế độ cộng sản vô thần, tượng trưng cho cái ác đến nỗi TT Reagan gọi đích danh là “đế quốc ma quỷ” (evil empire). Dưới con mắt các nhà quan sát Tây phương, Trung hoa Đại lục xem như "tốt" hơn Liên Xô. Năm 1972, TT Nixon đích thân sang Bắc Kinh gặp Mao bàn chuyện đứng chung một chiến tuyến, dọn đường cho Mỹ chính thức rút quân khỏi miền Nam qua Hiệp định Paris ký kết vào ngày 27/1/1973. Hậu quả gần là Mỹ bán đứng miền Nam cho Đại lục. Hồ sơ được bạch hóa cho thấy Việt nam là món quà hồi môn trong cuộc "lương duyên' giữa Washington và Bắc Kinh. Thân phận của một nước nhược tiểu chỉ bằng con chốt thí qua chính sách đối ngoại của Mỹ. Việt nam như một con chuột bạch trong phòng thí nghiệm Lipset. Hậu quả xa là cả một thế giới biến động khi miền Nam mất, và sự bất ổn hiện nay tại biển Đông, khi Trung hoa Đại lục vênh vang xâm chiếm các quần đảo làm bàn đạp với tham vọng kiểm soát toàn bộ Thái bình Dương, với ước mơ bá chủ thế giới.

Trong suốt 3 thập niên (1980-2010), các nhà quan sát vẫn chờ đợi một biến động dân chủ hoá từ các nước độc tài. Giới tinh hoa Tây phương vẫn tin tưởng sự thịnh vượng về kinh tế sẽ dẫn đến dân chủ. Hay nói ngược lại, theo cách tiêu cực, thì nền kinh tế của những quốc gia độc tài sẽ mãi èo uột, chứ đừng nói đến thịnh vượng. Nói rõ hơn, độc tài dẫn đến nghèo đói. 

Nhìn về phương Đông, nền kinh tế của những quốc gia dưới chế độ độc tài toàn trị vẫn ì ạch, không thể phát triển – đúng với lý thuyết “độc tài dẫn đến nghèo đói” – nhưng một vài quốc gia khác tuy vẫn duy trì chế độ độc tài (phi dân chủ) mà nền kinh tế vẫn phát triển đều đặn, mức sống người dân tuy không sung túc như ở phương Tây nhưng cuộc sống khá no đủ, nếu không nói là đầy đủ.

Cuối thế kỷ 20, ngoài Nhật bản, vùng châu Á-Thái bình dương có “Tứ Hổ” về kinh tế. Đó là Tân Gia Ba, Hồng-kông, Nam Hàn, và Đài Loan. Trừ Hồng-kông – thuộc địa của Anh từ 1841-1997, nên hấp thụ tư tưởng dân chủ của Tây phương dễ dàng – là một trung tâm tài chánh quan trọng, còn lại 3 quốc gia kia là những trường hợp đặc biệt khiến giới quan sát Tây phương lắc đầu khó hiểu.

1. Đài Loan

Đài Loan, hay còn gọi là Trung hoa Dân quốc, một hòn đảo với diện tích 36 nghìn km2 và nằm cách Trung hoa Đại lục một eo biển. Năm 1949, tướng Tưởng Giới Thạch bị Mao đánh bại trong đại lục, kéo theo hơn 2 triệu người ra hòn đảo để lánh nạn cộng sản. Họ Tưởng thiết lập chế độ quân luật ngay từ ngày đầu và theo chế độ độc đảng, không hề có đối thủ. Trong suốt 30 năm (1945-1975) cầm quyền, Tưởng Giới Thạch áp đặt một thể chế khá khắc nghiệt, tự do của người dân bị hạn chế. Tuy vậy, ông áp dụng chính sách cải cách ruộng đất, mua lại điền thổ của các điền chủ và bán lại cho 800.000 tá điền. Tiền lời và thuế vẫn phải trả bằng thóc gạo, nhưng sau một thời gian ngắn, nông dân làm chủ được mảnh đất trồng trọt. Luật canh tác cấm không một người nào sở hữu trên 7.7 mẫu đất. 

Nền kinh tế của Đài Loan èo uột trong suốt thập niên 1950 nhưng đến giữa thập niên 1960, mức độ phát triển tăng vọt đến nỗi giới quan sát phương Tây gọi là “phép mầu kinh tế.” Kỹ nghệ Đài Loan phát triển dưới sự dìu dắt của họ Tưởng, dẫn đến sự sản xuất mạnh mẽ các mặt hàng tiêu dùng. Nền kinh tế lớn dần và chiếm ngôi vị trong vùng châu Á-Thái bình dương. Năm 1988, tổng sản lượng của Đài Loan đạt 95 tỷ, và lợi tức bình quân đầu người là 4.800 USD cho khoảng 20 triệu dân, gấp 10 lần lợi tức của dân Đại lục. 

Tuy vậy, Đài Loan vẫn theo chế độ độc tài. Chức vụ tổng thống đều do Quốc hội chọn, người dân hầu như không có tiếng nói, không được bỏ phiếu chọn lựa ứng viên. Quốc dân đảng vẫn là đảng duy nhất, họ Tưởng vẫn giữ thể chế quân luật, thế mà nền kinh tế của Đài Loan vẫn tiến triển nhịp nhàng và vững chắc. 

Mãi cho đến tháng 7, 1987, Tổng thống Tưởng Kinh Quốc mới chính thức bãi bỏ chế độ quân luật sau 38 năm chế độ độc tài thống trị. Hiến pháp Đài Loan cho phép thành lập các đảng phái, mở đầu một kỷ nguyên dân chủ. Nhưng phải đợi đến năm 1996, người dân mới chính thức được chọn lựa người tài giỏi qua lá phiếu của mình, và Lý Đăng Huy là tổng thống đầu tiên do dân chọn bầu. Các chức vụ hành chính cấp tỉnh, huyện, phường đều do dân chọn lựa những người xứng đáng. Từ ngày dân chủ hoá đất nước, Trung hoa Dân quốc tiến triển không ngừng và nền kinh tế lại thêm cơ hội để bùng phát. Ngày nay, nền kinh tế Đài Loan đứng hạng 5 trong số 42 nước thuộc vùng châu Á-Thái bình dương. 

2. Nam Hàn

Bán đảo Triều tiên chia đôi theo vĩ tuyến 38, Bắc Hàn theo cộng sản, Nam Hàn theo chế độ cộng hoà. Lý Thừa Vãn là tổng thống đầu tiên của Nam Hàn. Tuy theo thể chế cộng hoà nhưng họ Lý vẫn duy trì độc đảng, hạn chế các quyền tự do của người dân. Năm 1961, tướng Phác Chánh Hy đảo chánh, truất phế Lý Thừa Vãn, nhưng họ Phác vẫn áp dụng chế độ độc tài. Năm 1963, ông bắt đầu kế hoạch ngũ niên thứ nhất, chú trọng vào cuộc cách mạng kỹ nghệ mang lại một nền kinh tế khả quan cho đất nước Hàn. Theo một khảo cứu của Học viện Kellogg mang tên “The Korean Miracle (1962-1980) Revisited” (Hồ sơ #166, tháng 11, 1991) thành phần nghèo giảm từ 40,9% vào năm 1965 xuống còn 9,8% vào năm 1981, và chỉ còn 5,1% vào năm 1987. Cuộc cải cách ruộng đất đưa tầng lớp tá điền từ 42% xuống 5%, và giúp người dân sở hữu ruộng đất từ 16,2% tăng lên 72%. Tổng sản lượng tăng trưởng vững bền với 3,4% từ 1953-1960. Trong hai thập niên 1960 và 1970, nền kinh tế tăng đều đặn 8% mỗi năm. Riêng cuối thập niên 1980, tổng sản lượng tăng nhảy vọt 12,5%, với 204 tỷ (1989) và nâng lợi tức bình quân đầu người từ 120$ (1962) lên 5.310$ (1989), theo số liệu của Ngân hàng Thế giới. Chỉ cần sau 5 kế hoạch Ngũ niên, dưới chế độ độc tài qua 3 đời tổng thống, Nam Hàn trở thành một con hổ kinh tế của vùng châu Á-Thái bình dương. Và đó cũng là lý do Nam Hàn được chọn là nơi tổ chức Thế vận hội XXIV năm 1988. 

Họ Phác áp dụng thể chế độc tài từ năm 1961, duy trì độc đảng. Ông áp đặt tình trạng thiết quân luật năm 1972 nhằm trấn áp những đòi hỏi tự do của người dân, nhất là giới sinh viên. Phác Chánh-hy bị ám sát chết năm 1979, và tướng Toàn Đẩu Hoán lên nắm quyền và vẫn duy trì thể chế độc tài. Tuy vậy, ông bãi bỏ và chấm dứt tình trạng thiết quân luật sau 18 năm (1961-1979). Người dân bắt đầu có tự do đôi chút. 

Cần nói thêm, người dân Nam Hàn luôn khao khát tự do dân chủ, đòi hỏi chính phủ phải cải tổ và tôn trọng dân quyền. Đầu thập niên 1960, sinh viên Nam Hàn biểu tình phản đối sự gian lận bầu cử nhưng họ Phác thẳng tay đàn áp. Lòng dân luôn sôi sục đòi hỏi tự do và TT Phác Chánh Hy vẫn không chịu nhượng bộ. Năm 1987, phong trào dân chủ của sinh viên lại bùng phát dữ dội, và cái chết của sinh viên Park Jong-chu là giọt nước tràn ly. Chính sự kiện này đã đẩy họ Toàn khỏi chức vụ tổng thống. Tướng Lư Thái Ngu lên nắm quyền, tuy vẫn độc tài, nhưng ông cải tổ hệ thống chính trị và ban hành nhiều luật lệ nhằm bảo đảm quyền tự do của người dân. Mãi đến năm 1993, người dân Nam Hàn mới chính thức cầm lá phiếu để bầu cho tổng thống Kim Vịnh Tam. Họ Kim là tổng thống đầu tiên do dân bầu sau 30 năm nằm dưới sự cai trị độc tài của quân đội. Từ đó, nền dân chủ Nam Hàn ngày càng vững mạnh và, dĩ nhiên, nền kinh tế ngày càng phát triển theo tỷ lệ thuận. Số liệu của Ngân hàng Thế giới cho thấy tổng sản lượng của Nam Hàn vào năm 2018 là 1.619 tỷ và lợi tức bình quân đầu người là 30.600$. So với lợi tức bình quân 120$/người vào năm 1962, sau gần 6 thập niên, lợi tức của người dân Nam Hàn tăng gấp 255 lần. Một sự tăng trưởng khổng lồ.

3. Tân Gia Ba

Lãnh thổ của hòn đảo Sư tử chỉ vỏn vẹn 724km2 với hơn 5,5 triệu dân, và lợi tức bình quân đầu người năm 2018 lại cao thứ nhì (chỉ thua Macao) trong các nước châu Á-Thái bình dương với 58.770$ – cao hơn cả Nhật bản – nhờ vào nền kinh tế phồn thịnh vượt bực. Lý Quang Diệu, thủ tướng đầu tiên của Tân Gia Ba năm 1959, là một người có tài kinh bang tế thế, hết lòng vì dân. Ông được các nước Tây phương kính trọng, và mỗi khi nhắc đến Lý Quang Diệu, sách báo đều nói ông là một nhà lãnh đạo chuyên quyền nhân từ (benevolent autocrat). Trên thực tế, đất nước Tân Gia Ba tôn trọng tự do của người dân gần như tuyệt đối nhưng luật lệ cũng rất nghiêm minh. Sở dĩ gọi là chuyên quyền vì Tân Gia Ba chỉ có một đảng Nhân dân Hành động duy nhất khuynh loát nền chính trị. Tuy cũng có đảng đối lập, nhưng ảnh hưởng không đáng kể. 

Đảng Nhân dân Hành động của Lý Quang Diệu cầm quyền từ ngày thành lập quốc gia cho đến nay – riêng ông cầm quyền suốt 31 năm (1959-1990) – và đưa đất nước Tân Gia Ba thịnh vượng nhất nhì châu Á. Lý Quang Diệu và đảng Nhân dân Hành động đã biến hòn đảo được mệnh danh Sư tử (Merlion) trở thành con Rồng kinh tế của vùng châu Á-Thái bình dương. Cần biết thêm Tân Gia Ba là một quốc gia thiếu thốn tài nguyên thiên nhiên trầm trọng, ngay cả nguồn nước ngọt phải nhập từ Mã Lai – gần 1 triệu m3/ngày – rồi mới hiểu được sự thành công kinh tế của hòn đảo Sư tử là một điều phi thường.

Ngoài những nước độc tài phát triển kể trên, phải kể thêm một số nhà lãnh đạo độc tài khác xây dựng nền kinh tế thành công như Augusto Pinochet của Chilê, Suharto của Nam dương, and Mahathir Mohamad của Mã lai. Nền dân chủ tại các nước này rất hạn chế – thường do các tướng lãnh đảo chánh và áp dụng chuyên quyền – người dân không hưởng được những quyền tự do phong phú như ở các nước Tây phương, thế mà nền kinh tế vẫn phát triển đều đặn. Thực tế cho thấy, vào các thập niên 70, 80, và 90 của thế kỷ trước, nền kinh tế thịnh vượng của những chế độ độc tài chuyên quyền tại Nam Hàn, Trung hoa Đại lục, Nam dương, Đài Loan, Tân Gia Ba, Mã lai giúp dân chúng xoá đói giảm nghèo hơn hẳn các nước dân chủ như Phi-luật-tân và Ấn độ. Hay nói cách khác, tất cả người dân Đài Loan, Tân Gia Ba, và Nam Hàn trở nên giàu có và sống sung túc dưới chế độ độc tài. 

Tuy thế, lý thuyết “thịnh vượng dẫn đến dân chủ” không hẳn sai hoàn toàn. Thật vậy, hầu hết các nước có thu nhập cao ngày nay đều đặt thể chế trên nền tảng dân chủ, mặc dù có vài trường hợp ngoại lệ rõ rệt – như các nước giàu dầu mỏ thuộc Vịnh Ba Tư. Như đã trình bày ở phần đầu, nếu lý thuyết của Lipset hiểu theo nghĩa tiêu cực “độc tài dẫn đến nghèo đói” – ngoại trừ một vài quốc gia đặc biệt kể trên – thì đa số lại đúng ở các nước độc tài khác. Rất nhiều kẻ độc tài làm lụn bại nền kinh tế quốc gia như Robert Mugabe của Zimbabwe, Kim Il-sung và dòng họ Kim của Bắc Hàn, Mohammar Qaddafi của Libia, Daniel Ortega của Nicaragua, Joseph Mobutu của Zaire, Ferdinand Marcos của Phi-luật-tân, Kenneth Kaunda của Zambia, Jean-Bedel Bokassa của Central African Republic, Julius Nyerere của Tanzania, Hội đồng quân nhân tại Miến điện, và còn nhiều nước nhỏ độc tài chuyên quyền khác như Eritrea, Turkmenistan, Uzbekistan, Bahrain, Azerbaijan, Laos, Eswatini, Tajikistan, Yemen, Angola, Burundi, Chad, Ethiopia, Liberia, Mozambique, Nigeria, Republic of Congo Brazzaville, Rwanda, Somalia, Sudan, Uganda, và Sierra Leone không đáng nói đến. Tất cả đều dẫn đến một thảm họa về kinh tế, và hậu quả là đến tận ngày nay các quốc gia độc tài này vẫn chìm đắm trong nghèo đói.

Đến đây, chúng ta phải nhìn nhận cái tâm của một vài nhà lãnh đạo. Tuy chuyên quyền, duy trì chế độ độc tài, nhưng họ một lòng vì dân vì nước, và điểm nổi bật là họ thật sự có tài. Họ thấy xa, hiểu rộng, và đem hết tâm trí quyết xây dựng đất nước vững mạnh. Hàng trăm nước trên thế giới chỉ đặc biệt được vài nước như Tân Gia Ba, Đài Loan, và Nam Hàn – độc tài chuyên quyền nhưng kinh tế vững mạnh. Hơn 7 tỷ người trên trái đất chỉ được vài chục người như Lý Quang Diệu, Tưởng Giới Thạch, và Phác Chánh Hy. Vì thế, giới tinh hoa vẫn muốn tìm ra một phương thức hữu hiệu để xiển dương và truyền bá tư tưởng dân chủ – một biểu tượng của phương Tây trong suốt 200 năm qua – đặc biệt đến các nước kém phát triển thuộc thế giới thứ ba.

Tân Gia Ba độc đảng nhưng dân quyền được tôn trọng và bảo đảm. Đài Loan độc tài chuyên quyền nhưng nền kinh tế phát triển, cuối cùng là nền dân chủ hoàn toàn, và dẫn đến sự thịnh vượng. Thể chế tại Nam Hàn cũng có tiến trình tương tự như Đài Loan và nền kinh tế phồn thịnh như một phép mầu. Riêng Trung hoa Đại lục là một bài toán mà giới quan sát phương Tây vẫn chưa tìm được đáp số. Sau cuộc cách mạng chính trị thành công do Đặng Tiểu Bình phát động – cho phép người dân có quyền tư hữu – nền kinh tế Trung hoa Đại lục tăng trưởng nhảy vọt, trung bình 10% mỗi năm. Chỉ cần gần 4 thập niên (1980-2019) với chính sách kinh tế đổi mới "không cần biết mèo trắng hay đen, miễn là bắt được chuột," tổng sản lượng Trung hoa Đại lục vượt lên đứng nhì, chỉ sau Hoa kỳ. Nhưng chế độ chuyên chính vẫn như cũ, nếu không nói trên một vài phương diện có phần khốc liệt hơn thời Mao. Trường hợp của Trung hoa Đại lục gây nhức nhối cho giới tinh hoa và bắt đầu từ thiên niên kỷ thứ 3, các nhà kinh tế và xã hội bắt đầu xét lại lý thuyết Lipset.

Vào thập niên cuối của thế kỷ trước, theo sau Lipset, có khá nhiều công trình nghiên cứu nghiêm túc và khoa học của các học giả và giới khoa bảng về tương quan giữa dân chủ và thịnh vượng. Hiện đại hoá trước rồi dân chủ tất nhiên đến hay ngược lại, dân chủ hoá trước rồi nền kinh tế sẽ phồn thịnh?

Công trình khảo cứu lớn lao của Gs. Kinh tế Vĩ mô Robert Barro thuộc Đh. Harvard xác định quan hệ nhân quả giữa dân chủ và thịnh vượng nhưng lại khá phức tạp. Ông khảo cứu 100 quốc gia trong thời gian 30 năm (1960-1990) và trình bày kết quả qua tiểu luận “Democracy and Growth” (1994) cho thấy những nước có nền dân chủ thấp nếu tăng quyền lợi của người dân (dân chủ hơn) đều dẫn đến sự tăng trưởng về kinh tế – tiêu biểu là Trung hoa Đại lục, Việt nam, và các nước trước đây thuộc khối Xô-viết. Ngược lại, những nước đã có một nền dân chủ khá vững chắc (mid-level democracy), tăng dân quyền lại không tăng sự thịnh vượng, đôi khi lại tạo ra trì trệ chỉ vì mối lo ngại về sự tái phân phối lợi tức (income re-distribution). Ngoài khảo cứu của Gs. Barro nói lên tương quan phức tạp giữa dân chủ và thịnh vượng, còn lại rất nhiều khảo cứu khác lại dẫn đến một kết quả hầu như đi ngược lại lý thuyết của Lipset. 

Phải kể đến những khảo cứu nổi bật sau đây:

- Ts. Joseph Siegle, giám đốc Trung tâm Phi châu chuyên Nghiên cứu Chiến lược nhận xét mối tương quan giữa Kinh tế & Dân chủ – qua tiểu luận “Tại sao Dân chủ là Trung tâm dẫn đến Thịnh vượng và Ổn định” – đôi khi không tác động hỗ tương theo tỷ lệ thuận. Siegle nhận ra có 9 nước độc tài - Bhutan, China, Egypt, Indonesia, Singapore, South Korea, Taiwan, Tunisia, và Việt nam – giữ vững sự phát triển kinh tế ít nhất trong một thập niên kể từ 1980. Nếu vậy, không hẳn dân chủ mới dẫn đến sự thịnh vượng, vì ngay cả độc tài vẫn đưa đến sự thịnh vượng trong một thời gian ngắn. Như trường hợp của 9 nước trên thì thời gian đó kéo dài ít nhất một thập niên. Nhưng trường hợp đáng bàn nhất vẫn là Trung hoa Đại lục vì sự thịnh vượng kéo dài hơn 3 thập niên và vẫn kéo dài mãi đến tận ngày nay. Thế mà Đại lục vẫn độc tài, họ vẫn duy trì độc đảng, họ Tập đã sửa đổi hiến pháp để tiếp tục làm "vua" trong nhiều nhiệm kỳ và có thể đến mãn đời. 

Siegle quay ngược lịch sử Trung hoa Đại lục và so sánh 2 thời kỳ mỗi 30 năm gồm 1950-1980 (bao cấp, chủ nghĩa xã hội), và 1980-2010 (cởi mở, tự do kinh doanh) và nhận ra xã hội Trung hoa Đại lục có một sự tiến bộ đáng kể về dân chủ, đặc biệt quyền tư hữu, mọi người đều được quyền làm giàu. Dân chúng hưởng một bầu khí tự do hơn, dân quyền được tôn trọng hơn so với thời Mao. Nhà cầm quyền cho phép người dân tự do làm ăn, buôn bán, kinh doanh. Như thế, tuy nền dân chủ & sự phát triển kinh tế không song hành (theo tỷ lệ thuận) nhưng rõ ràng chúng vẫn có một mối tương quan mật thiết. Ông kết luận, "...rõ ràng nền dân chủ hỗ trợ việc phát triển kinh tế hoặc ít nhất giữ vững mức độ tăng trưởng."

- Gs. Kinh tế nổi tiếng Torsten Persson thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế Quốc tế của Đh. Kinh tế Luân-đôn và Gs. Guido Tabellini thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế của Đh. Bocconi (Ý) viết chung tiểu luận “Constitutions and Economic Policy” nhìn nhận sự tương quan mật thiết giữa Hiến pháp và Chính sách Kinh tế. Chính Hiến pháp bảo đảm dân quyền của một quốc gia quyết định sự phát triển nền kinh tế của quốc gia đó.

· Trung tâm Khảo cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS, Center for Strategic and International Studies) và Trung tâm Phát triển Hoa kỳ (CAP, Center for American Progress) xác nhận, qua báo cáo “Why Promoting Democracy is Smart and Right,” cho đến bây giờ, thế kỷ 21 của nền văn minh nhân loại, trên thế giới vẫn còn một số quốc gia không hề biết thế nào là tự do dân chủ, và tiếp tục đàn áp người dân thật dã man. Amartya Sen, kinh tế gia, minh định rằng “các quyền tự do kinh tế và tự do chính trị có tác dụng hỗ tương và cần song hành.” Thêm vào đó, một số nghiên cứu nghiêm túc chứng minh tầm quan trọng tối hậu của tự do chính trị (dân chủ) và một chính quyền minh bạch sẽ thúc đẩy sự thịnh vượng kinh tế lâu dài. 

Có thể tóm lược học thuyết trên như sau: một khi các quyền tự do của người dân được tôn trọng và bảo đảm, nền kinh tế của quốc gia đó sẽ phát triển. Hay nói ngắn gọn hơn, dân chủ sẽ dẫn đến thịnh vượng. 

Kết quả các khảo cứu trên rõ ràng đi ngược lại lý thuyết “Thịnh vượng dẫn đến Dân chủ” của Lipset.

III. Dân chủ dẫn đến thịnh vượng

Năm 2012, Daron Acemoglu (Gs. Kinh tế tại M.I.T.), và James A. Robinson (nhà Khoa học Chính trị và Gs. Kinh tế tại Harvard) xuất bản cuốn Why Nations Fail, gây tiếng vang khá lớn trong cách nhà khoa bảng về kinh tế và xã hội. Trong tập sách dày hơn 400 trang, một công trình khảo cứu trong 15 năm, hai giáo sư dẫn chứng những số liệu và sự kiện lịch sử nhằm chứng minh tương quan nhân quả giữa dân chủ và thịnh vượng. Trước hết, hai ông bẻ gãy những lập luận trước đây giải thích tình trạng kinh tế của các nước nghèo chậm tiến. 

Hai giáo sư khẳng định, “Đối với những nước nghèo, họ nghèo không phải vì (1) hoàn cảnh địa lý hay vì (2) nền văn hóa, hoặc vì (3) những nhà lãnh đạo không biết dùng chính sách nào để làm cho dân giàu nước mạnh.”

1. Về địa dư, Acemoglu và Robinson bác bỏ lập luận của Montesquieu khi ông ta cho rằng những nước ở miền nhiệt đới vì khí hậu quá nóng nên làm việc mau mệt và từ đó sinh lười biếng. Mà lười biếng thì không siêng học hỏi, không ham làm nên gây ra nghèo. Hoàn cảnh địa lý làm những nước này mãi mãi nghèo. Theo Montesquieu, các nước vùng hàn đới thì khá nhất, tiếp theo là ôn đới, và sau cùng là các xứ nhiệt đới về mức độ thịnh vượng, giàu có. Montesquieu lập luận rằng chính hoàn cảnh địa dư giúp dân chúng phát triển dễ dàng nhưng ông không sống lâu để thấy các nước trong vùng nhiệt đới như Singapore, Malaysia, Botswana phát triển mạnh vào hậu bán thế kỷ 20 và cho đến tận bây giờ, nâng cao nếp sống của người dân, mặc dù những nước này nằm gần đường xích đạo, khí hậu nóng bức quanh năm. Hoàn cảnh địa dư khắc nghiệt của Singapore mới đáng chú ý: hòn đảo Sư tử gần 6 triệu dân thiếu nước trầm trọng, phải nhập cảng 250 triệu ga-lông nước mỗi ngày, chiếm 60% lượng nước cần dùng cho dân chúng. Với khí hậu và hoàn cảnh địa lý nghiệt ngã nhưng Singapore vẫn là một trong những nước tiên tiến tại châu Á hiện nay. Như thế, địa dư chẳng ảnh hưởng gì đến sự thịnh vượng của quốc gia đó cả.

2. Về nền văn hóa, hai Giáo sư cũng bác bỏ lập luận của nhà xã hội học Đức nổi tiếng, Max Weber, khi ông cho rằng cuộc Cải Cách Tin Lành (Protestant Reformation, 1517-1648) là điểm cốt lõi, làm bàn đạp cho sự thịnh vượng ở Âu-châu về sau. Weber đi xa hơn khi cho rằng sự kiện không chỉ đơn thuần là tôn giáo mà còn liên quan đến niềm tin, giá trị tinh thần, và đạo đức. 

Vậy thì có ai dám khẳng định chính nền đạo lý Khổng giúp cho nền kinh tế phát triển hiện nay của Trung hoa Đại lục? Không, triết lý Khổng đã chết thảm từ ngày Mao thiết lập chế độ cộng sản trên đất Đại lục, nhất là trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-1976), khi giới trí thức bị trù dập và thủ tiêu dã man và đạo lý Khổng bị bêu rếu và tận diệt một cách có hệ thống. Xã hội bị vùi dập tơi tả qua các cuộc cách mạng do Mao đề xướng. Đời sống người dân cơ cực, tệ hơn thời trước cuộc cách mạng tháng Mười, 1949. Riêng cuộc Đại Nhảy Vọt (1958-1962) ngạo mạn của Mao đã gây ra nạn đói khủng khiếp dẫn đến hàng chục triệu người chết đói; riêng theo nghiên cứu của nhà sử học Trung hoa Yu Xiguang, số người chết đói lên đến 56 triệu. Đời sống của dân Trung hoa Đại lục chỉ được nâng cao sau ngày Mao chết, khi Đặng Tiểu Bình cởi bỏ dần dần các quy luật kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lê trong lãnh vực nông nghiệp rồi kỹ nghệ và áp dụng nền kinh tế thị trường; công nhận quyền tư hữu, cho phép các đảng viên tự do làm giàu. Rõ ràng, triết lý Khổng, giá trị tinh thần và đạo đức Khổng hoàn toàn không liên quan gì đến sự thịnh vượng của Trung hoa Đại lục ngày nay, nhưng chính là sự nới lỏng thể chế chuyên chính ở thượng tầng bằng cách tôn trọng một số quyền tự do của người dân, đặc biệt quyền tư hữu, dẫn đến sự cởi mở cho phép kinh doanh, buôn bán.

Trước 1954, người dân Việt Nam hãnh diện có một lịch sử bốn nghìn năm văn hiến, hấp thụ vững vàng nền văn hóa cổ truyền của cha ông. Sau khi vĩ tuyến 17 chia cắt Nam và Bắc, hai miền theo hai chế độ trái ngược nhau. Từ năm 54 đến 75, đời sống của dân chúng miền Nam tuy vất vả nhưng khá ổn định. Nền kinh tế của miền Nam Việt nam tương đối phát triển, cho dù đang trong thời kỳ chiến tranh. Ngành nông nghiệp thu hoạch cao, bảo đảm sự tiêu dùng trong nước kể cả xuất cảng. Các công xưởng, kỹ nghệ mọc lên, tạo công ăn việc làm cho người dân. Kỹ nghệ chế tạo xe hơi là một niềm hãnh diện của nền kinh tế miền Nam. Nếu tính toàn cõi Đông Nam Á, sau Nhật và Trung hoa Đại lục thì miền Nam Việt nam là quốc gia thứ ba chế tạo và ráp đặt thành công chiếc xe hơi mang tên La Dalat vào cuối thập niên 1960, mặc dù ruột là động cơ Citroen của Pháp, (trong khi Đại hàn mãi đến 1975 hãng Hyundai mới sản xuất chiếc Pony đầu tiên, với động cơ Mitsubishi của Nhật). Tiện nghi trong gia đình đầy đủ, từ tủ lạnh đến máy thu thanh, đến truyền hình màu. Trong khi đời sống của dân miền Bắc quá nghèo khổ; bữa ăn thường lửng bụng, tiện nghi trong đời sống thiếu thốn. Chẳng phải người dân hai miền có chung một nền văn hóa đấy sao? Vậy mà đời sống người dân lại hoàn toàn khác xa nhau. Như thế, nền văn hiến bốn nghìn năm chẳng liên quan gì đến sự thịnh vượng cả.

Còn nền văn hóa Cao Ly thì sao? Nam Hàn giàu mạnh, đời sống dân chúng hưởng thụ đầy đủ tiện nghi, còn dân Bắc Hàn ngày chẳng đủ ăn, đã có thời chết đói hàng triệu người, và nguy cơ nạn đói vẫn treo lơ lửng trên đầu dân chúng mỗi ngày. Người dân cả hai miền cùng thụ hưởng một nền văn hóa đấy thôi. Bên trời Âu, đời sống của dân Tây Đức cao hơn hẳn đời sống của dân Đông Đức, tuy cả hai cũng hấp thụ một nền văn hoá như nhau. Ngay tại Hoa kỳ cũng có sự khác biệt lớn lao như vậy. 

Nogales, một thành phố cách nhau bởi một biên giới, một bên thuộc bang Arizona – Hoa kỳ, bên kia thuộc bang Sonora – Mễ-tây-cơ. Dân cư hầu như cùng một chủng tộc, lai Tây-ban-nha, hoặc thổ dân, chung một tổ tiên, cùng một ngôn ngữ, chung một địa dư. Dân chúng hai bên biên giới chịu chung một khí hậu, nét ẩm thực giống nhau, thưởng thức âm nhạc như nhau. Thế mà hai sự thịnh vượng lại khác nhau hoàn toàn; từ thu nhập lợi tức đến tiện nghi, từ giáo dục đến trình độ học vấn, từ kinh tế đến sức khỏe, từ môi sinh đời sống đến an toàn xã hội… tất cả là một sự khác biệt rõ rệt. Đời sống của người dân Nogales thuộc Mễ-tây-cơ thua kém rất xa so với đời sống của người dân Nogales thuộc Hoa kỳ. Rõ ràng nền văn hóa chẳng đóng một vai trò cốt yếu nào cho sự phát triển kinh tế của đất nước.


3. Sự hiểu biết nông cạn về kinh tế của nhà cầm quyền. Acemoglu và Robinson bác bỏ lập luận của nhiều kinh tế gia – nổi bật là Lionel Robbins – cho rằng kinh tế là một bộ môn khoa học phức tạp nên nhiều vị nguyên thủ thiếu hiểu biết; do đó không biết cách đẩy mạnh nền kinh tế quốc gia. 

Trước hết, kinh tế đúng là bộ môn phức tạp, nhưng không đòi hỏi các nhà lãnh đạo phải có bằng cấp hoặc một kiến thức vững vàng về kinh tế, vì còn cả một nội các gồm những người tài giỏi. Những kẻ am tường về kinh tế sẽ đề ra những phương án và những đề nghị thích hợp để giúp đất nước phát triển. Điều ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển kinh tế không phải là vì kém hiểu biết nhưng chính là thể chế mà các nhà lãnh đạo duy trì và bảo vệ.

Hai Giáo sư dẫn chứng trường hợp của Ghana, quốc gia giành được độc lập từ Anh quốc năm 1957. Kwame Nkrumah thiết lập nền cộng hòa nhưng lại tuyên bố ông ta làm tổng thống mãn đời. Thời gian đầu, Nkrumah có hai chuyên viên cố vấn kinh tế: Tony Killick, và Sir Arthur Lewis (đoạt Nobel về kinh tế 1979) sẵn lòng giúp Ghana phát triển nhưng Nkrumah vẫn xây dựng kinh tế hạ tầng theo cách của ông. Chẳng hạn như Nkrumah cho xây nhà máy thuộc da cách nhà máy giết gia súc 500 dặm, nhà máy làm giày lại cách đó 200 dặm nữa, và cuối cùng là thị trường tiêu thụ giày cách chỗ thuộc da thêm 200 dặm về phía Nam. Kinh tế gia Killick đề nghị nên xây dựng các nhà máy liên quan đến sản phẩm gần với nhau để tránh phí tổn vận chuyển, giúp giảm thiểu giá thành, tạo ra sản phẩm có thể cạnh tranh trên thị trường rộng lớn. Nghe hợp lý nhưng Nkrumah không chấp nhận và vẫn xây dựng theo kế hoạch đã duyệt. Sau này, Killick mới hiểu là sở dĩ Nkrumah cho xây nhà máy cách xa nhau chỉ vì quyền lợi chính trị. Xây mỗi nhà máy ở một thành phố là để làm vừa lòng thủ lãnh của thành phố đó, giúp Nkrumah kiếm phiếu cho những lần bầu cử trong tương lai. Kofi Busia, người kế vị, cũng xây dựng nhà máy và các dự án kinh tế giống như Nkrumah; nghĩa là chỉ vì lợi ích chính trị. Tất cả những dự án kinh tế khác của Ghana cũng hoàn toàn dựa trên lợi ích chính trị, và kết quả là Ghana đến giờ này vẫn là một quốc gia nghèo đói.

Theo hai giáo sư, “trở ngại chính trong việc áp dụng các chính sách thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế không phải vì sự kém hiểu biết của các nhà lãnh đạo mà chính là những động lực và hạn chế mà họ đối diện từ các tổ chức chính trị và kinh tế trong xã hội của họ.”

Một ví dụ khác, tuy kiến thức về kinh tế của những người cầm đầu quốc gia không bao nhiêu nhưng cấu trúc chính trị trong xã hội mới là nhân tố thúc đẩy nền kinh tế phát triển, và dẫn đến thịnh vượng. Trung hoa Đại lục là một trong những quốc gia đổi mới từ một thể chế kinh tế gây ra nghèo nàn và đói kém ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng trăm triệu người sang một chính sách kinh tế cởi mở hơn, tự do hơn. Đảng cộng sản Trung hoa cuối cùng hiểu được rằng cơ cấu làm chủ tập thể trong nông nghiệp và công nghiệp chỉ tạo ra thảm họa cho đất nước. Đặng Tiểu Bình, người đứng đầu đảng cộng sản sau khi Mao chết, với tầm kiến thức về kinh tế không khá hơn Mao bao nhiêu chỉ vì hoàn toàn trưởng thành trong môi trường cộng sản, nhưng có một quyết định táo bạo về cải cách chính trị. Ông và các đồng chí cùng chung tư tưởng đổi mới, đã đánh bại các đảng viên giáo điều và bảo thủ trong nội bộ đảng cộng sản để hoàn tất một cuộc cách mạng chính trị, thay đổi hoàn toàn sự lãnh đạo và hướng đi của đảng. Chỉ cần một thời gian ngắn, những cải cách kinh tế này đã tạo ra của cải vật chất dồi dào vượt bực trong nông nghiệp và không bao lâu sau đó, nền công nghiệp phát triển mạnh. Tất cả những thành quả to lớn đạt được kéo dài mãi đến tận ngày nay bắt đầu từ cuộc cách mạng chính trị ngay trong nội bộ đảng. Rõ ràng sự cải cách cơ cấu chính trị đã quyết định sự chuyển đổi từ nền kinh tế chủ nghĩa cộng sản sang nền kinh tế thị trường ở Đại lục, và dẫn đến thịnh vượng chứ không phải vì họ Đặng có nhiều vốn liếng hiểu biết về nền kinh tế tự do hoạt động thế nào.

Sau khi bác bỏ những lập luận không còn hợp thời nữa, hai giáo sư giới thiệu hai thể chế chính trị đặc trưng ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế. Acemoglu và Robinson chia thể chế chính trị của những nước này làm 2 nhóm khác nhau: (hai giáo sư dùng thuật ngữ nên xin lỗi độc giả không tìm được danh từ Việt thích hợp)

- nhóm "extractive" thường gọi là nhóm lợi ích, gồm một số người rất nhỏ nắm giữ quyền lực và hưởng tất cả bổng lộc; tất cả tài nguyên và của cải quốc gia đều bị thâu tóm và nằm trong tay nhóm này. Chữ “extractive” có nghĩa là chiết ra, rút ra… nên xin đặt tên là “nhóm bòn rút” hoặc “nhóm lợi ích.” Nền chính trị này gọi là thể chế bòn rút hay thể chế độc tài.

- nhóm "inclusive" gồm đại đa số người dân (masses, grassroots). Trái ngược với “nhóm bòn rút,” lợi ích và của cải vật chất quốc gia nằm trong tay toàn dân. Tinh thần dân chủ thuộc nhóm này. Chữ “inclusive” có nghĩa là bao gồm, bao thể cả quần chúng… nên xin đặt là “nhóm quần chúng.” Nền chính trị này gọi là thể chế quần chúng hay thể chế dân chủ.

Thể chế kinh tế quần chúng hỗ trợ nhu cầu vật chất của hầu hết người dân. Thể chế này có tính năng bảo vệ quyền sở hữu, bảo đảm một hệ thống luật lệ không thiên vị và cung cấp một thị trường bình đẳng, trong đó mọi người được tự do trao đổi, tự do buôn bán và kinh doanh. Chính tự do và bình đẳng khuyến khích người dân chọn nghề nghiệp thích hợp với kỹ năng của bản thân, phát triển các kỹ năng đó qua giáo dục, và tích luỹ kinh nghiệm để đầu tư hoặc kinh doanh. Trái lại, thể chế bòn rút – như tên gọi – thâu tóm tất cả mọi lợi nhuận và quyền lợi kinh tế về riêng một nhóm nhỏ; chính nhóm này thống trị quyền lực chính trị và kiềm chế tất cả mọi hoạt động kinh tế và xã hội ảnh hưởng đến lợi ích của họ. 

Sự khác biệt rõ ràng giữa hai thể chế này chính là cấu trúc thượng tầng chính trị. Một bên là quyền lực và quyền lợi nằm trong tay nhóm lợi ích, rất nhỏ. Còn một bên là tất cả tài nguyên đều thuộc về đại đa số quần chúng. Ngoài ra còn một sự khác biệt khác rất quan trọng giữa hai thể chế chính là sự phá huỷ sáng tạo (creative destruction). Đây là đặc tính thiết yếu trong thị trường tự do để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chúng ta nên dành một vài dòng để hiểu rõ nhân tố cốt tử quyết định sự tiến triển của nền kinh tế tư bản.

Joseph Schumpeter, một nhà kinh tế lỗi lạc, đề cập đến sự phá huỷ sáng tạo lần đầu tiên vào năm 1942 trong cuốn "Capitalism, Socialism and Democracy." Schumpeter cho rằng trong một nền kinh tế phát triển, luôn có những phát minh hoặc sáng kiến để tăng năng suất, và chính những kỹ thuật mới sẽ thay thế kỹ thuật lỗi thời. Nói nôm na, phá huỷ sáng tạo nghĩa là sự sáng tạo cái mới sẽ phá huỷ cái đương thời, (xin xem thêm phần phụ chú để hiểu rõ hơn quá trình này).

Theo Schumpeter, đây chính là động lực của sự phát triển công nghiệp và một khía cạnh đặc trưng không thể thiếu của chủ nghĩa tư bản. Nhờ phá huỷ sáng tạo, kinh tế tiến triển liên tục dẫn đến sự cải thiện không ngừng mức sống cho người dân. Điều dễ hiểu là phát minh mới sẽ tạo ra sản phẩm mới, tốt hơn, rẻ hơn, hiệu quả hơn – như máy vi tính thay thế máy đánh chữ – nhưng sáng kiến (innovation) của doanh nhân cũng dẫn đến sự phá hủy sáng tạo vì chính sự đổi mới khiến kỹ thuật, kỹ năng và thiết bị cũ trở nên lỗi thời – như iPod của Steve Jobs năm 2001 thay thế máy Walkman của Sony (Nhật) và MPMan của SeaHan (Nam Hàn) và kỹ nghệ tải nhạc của Napster và MySpace. 

Không ai chối cãi được rằng thể chế bòn rút vẫn thúc đẩy nền kinh tế tiến triển. Tổng sản lượng của thể chế độc tài Liên Xô tăng đều đặn 6% từ 1928 - 1960. Cùng một thể chế độc tài toàn trị, nền kinh tế Trung hoa Đại lục tăng trưởng trên dưới 10% mỗi năm kể từ thập niên 1990. Trong vòng 4 thập niên với chính sách đổi mới, tổng sản lượng Trung hoa Đại lục vượt hẳn các cường quốc, chỉ thua Hoa kỳ. Trong khi nền kinh tế tư bản phưong Tây chỉ mong tổng sản lượng tăng trưởng cao hơn mức lạm phát 3% hàng năm là xem như thành công, nên con số 6% tăng trưởng của Liên Xô trong thời Chiến tranh Lạnh, và 10% của Đại lục phải nói là phép mầu. Nền kinh tế phát triển đều đặn tạo niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản càng thêm mãnh liệt đến nỗi Nikita Khrushchev, năm 1956, dám tuyên bố với giới ngoại giao Tây phương, “chúng tôi sẽ chôn sống các ông,” hàm ý chế độ tư bản sẽ bị tiêu diệt. Ngay cả cơ quan CIA cũng thành lập một ban đặc trách nghiên cứu nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vào cuối thập niên 1960, đã nhiều lần các nhà kinh tế Tây phương tự hỏi có nên bắt chước khuôn mẫu nền kinh tế của Liên Xô; nghĩa là có nên bãi bỏ nền kinh tế tự do và tập trung quyền hành kinh tế vào tay chính phủ như Liên Xô đã làm và thành công. Sách giáo khoa kinh điển đều nói về hiện tượng kinh tế Xô-viết. Nổi bật nhất là Paul Samuelson (đoạt Nobel về kinh tế 1970) viết cuốn Economics: an Introductory Analysis vào năm 1948 dùng để giảng dạy trong các trường đại học. Cuốn sách được hiệu đính và xuất bản tất cả 17 lần. Trong ấn bản lần thứ 7, năm 1961, Samuelson ghi nhận tổng sản lượng của Xô-viết chỉ bằng gần một nửa so với tổng sản lượng Hoa kỳ, nhưng ông tiên đoán nền kinh tế Xô-viết sẽ vượt Hoa kỳ sớm nhất vào năm 1984, và trễ nhất vào năm 1997. Khi nền kinh tế Xô-viết bắt đầu khựng lại và xuống dốc, trong ấn bản năm 1980, Samuelson vẫn tiếp tục “tiên tri” nền kinh tế Xô-viết sẽ vượt Hoa kỳ vào năm 2002, và trễ nhất 2012. Điều mỉa mai là mãi cho đến nay, năm 2020, cuốn sách vẫn được lưu hành và dùng để tham khảo, ngay cả Samuelson cũng không hề đính chính hoặc hiệu đính lời tiên đoán. Ông chỉ viết bài đăng trên một tạp chí và đổ lỗi cho “thời tiết xấu” tại Liên Xô gây ra mất mùa nên tiên đoán của ông không thành sự thật.


Sau khi khối Liên Xô tan rã (1991), các nhà quan sát mới nhận ra một điều nền kinh tế khối Xô-viết tăng trưởng đều đặn không phải vì sự phá hủy sáng tạo – cải tiến kỹ thuật – nhưng chính là vì sự tái phân bổ lực lượng lao động từ nông thôn về thành thị và tích lũy vốn thông qua việc tạo ra các công cụ và nhà máy mới. Trước 1930, hơn 80% dân Nga sống ở vùng nông thôn. Với chủ trương kỹ nghệ hóa, Stalin phân bổ lực lượng lao động ồ ạt vào các công xưởng tại các thành thị và, dĩ nhiên, không một ai được phép từ chối dưới chế độ toàn trị. Với nhân lực hùng hậu dồn vào ngành kỹ nghệ, và thừa hưởng những phát minh khoa học đương thời, nền kinh tế của chế độ Xô-viết tăng trưởng đều đặn 6% mỗi năm.

Nhưng đến đầu thập niên 1980, nền kinh tế của Xô-viết chậm lại, ngưng trệ, rồi sụp đổ. Nguyên nhân chính là sự phá hủy sáng tạo. Trong một thời gian dài, Liên Xô hầu như không có một phát minh hay sáng kiến nào để thúc đẩy nền kinh tế. Lãnh vực duy nhất mà Liên Xô cố gắng duy trì một số sáng kiến là công nghệ quân sự và không gian vũ trụ. Thành quả đáng ngưỡng mộ mà Liên Xô đạt được là đưa chú chó đầu tiên, Leika, và phi hành gia đầu tiên, Yuri Gagarin, vào không gian. Cũng nên nhắc đến một di sản khác Liên Xô để lại cho nhân loại: khẩu AK-47 – một sáng chế gần như tuyệt hảo – được dùng trong khắp các chiến trường trong suốt thời Chiến tranh Lạnh. 

Sau khi khối Xô-viết sụp đổ, nền kinh tế của Trung hoa Đại lục vươn lên. Thế giới chứng kiến một sự tăng trưởng kinh tế phi thường đi kèm với sự gia tăng chưa từng thấy về thu nhập thực tế và mức sống. Thật vậy, sự cải cách chính trị của họ Đặng đã mang lại sự tăng trưởng khổng lồ về mức sống cho một số lượng người dân lớn nhất trong lịch sử loài người. Năm 1978, với dân số gần 1 tỷ, nhà nước Đại lục tuyên bố đã giảm được nghèo – những người có thu nhập dưới 38 đô la mỗi năm – từ 250 triệu xuống còn khoảng 80 triệu người. Từ 1978 đến 1994, thu nhập ròng bình quân đầu người hàng năm của nông dân tăng gấp ba lần, lên 146 đô la; thu nhập ròng của dân đô thị tăng hơn gấp đôi, lên $380. Trong những năm 1960 và 1970, giấc mơ của người dân Đại lục là đồng hồ đeo tay, máy thu thanh, xe đạp và máy may. Đây là “bốn vật dụng lớn” dưới thời bao cấp của Mao. Vào giữa thập niên 1980 và 1990, giấc mơ của dân chúng Đại lục cao hơn, đắt tiền hơn: tivi màu, tủ lạnh, máy ghi âm và máy giặt tự động. Ngày nay, người Đại lục khao khát máy điều hòa không khí, máy thu hình, xe gắn máy và một số người khác mơ đến một ngôi nhà lầu khang trang, và một chiếc xe hơi.


Hai giáo sư Acemoglu và Robinson phân tích về hiện tượng kinh tế tăng trưởng vượt bực của Đại lục, giấc mơ của các cường quốc. Mức tăng trưởng trung bình 10% từ 1990-2012 là một kỳ công. Giống như Liên Xô vào đầu thập niên 1930, phần đông dân Đại lục sống ở nông thôn. Vốn tư bản bắt đầu đổ vào Đại lục từ đầu thập niên 1990, riêng năm 1995 đổ vào một kỷ lục 35 tỷ, và các công xưởng dần dần mọc lên như nấm, thu hút dân từ nông thôn đổ dồn về thành thị. Kết quả của sự phân bổ lực lượng lao động tự nguyện là hàng trăm triệu dân lao đầu vào các nhà máy kiếm sống nhờ sự cải cách chính trị của họ Đặng, cho phép quyền tư hữu. Kế hoạch kỹ nghệ hóa, đặc biệt kỹ nghệ nặng – như Liên Xô vào gần giữa thế kỷ trước – và sự thừa hưởng các phát minh cũng như sáng kiến đương thời khiến tổng sản lượng của Đại lục tăng vọt từ vài trăm tỷ năm 1980 lên trên 14 nghìn tỷ năm 2019. 

Acemoglu và Robinson tiên đoán nền kinh tế Đại lục sẽ đi đến một kết thúc như Liên Xô; nghĩa là chậm lại, ngưng trệ, và sụp đổ nếu cấu trúc thượng tầng chính trị không thay đổi triệt để. Tất cả vì nền kinh tế thiếu sót sự phá hủy sáng tạo. Kẻ thù số một của nền kinh tế Trung Quốc là sự tê liệt chính trị. Bằng mọi giá phải giữ ổn định chính trị. Vì thế, các tập đoàn kinh tế quốc doanh không bao giờ chấp nhận sự phá hủy sáng tạo chỉ vì ảnh hưởng đến lợi ích của một vài cá nhân. Ngoài những đảng viên nằm trong nhóm bòn rút, hầu hết tất cả những người dân ở Đại lục đều khao khát tự do sáng tạo để giữ nền kinh tế thịnh vượng, nhưng chính hệ thống chính trị sẽ không bao giờ cho phép người dân thực hiện việc tái cấu trúc mang lại lợi ích chung.

Chủ nghĩa tư bản nhà nước Đại lục có thể tồn tại qua sự phá hủy sáng tạo không? Thưa không, bởi vì nhóm lợi ích cố thủ và đánh bại mọi ý tưởng thay đổi. Hai giáo sư nêu ra một vài lý do:

- Đầu tiên, tăng trưởng kinh tế bền vững đòi hỏi phải đổi mới, và đổi mới không thể tách rời khỏi sự phá hủy sáng tạo, thay thế cái cũ bằng cái mới trong lĩnh vực kinh tế nhưng đồng thời làm mất ổn định quan hệ quyền lực chính trị. Bởi vì nhóm lợi ích thống trị các thể chế độc tài bòn rút rất sợ sự phá hủy sáng tạo, nên bằng mọi cách sẽ chống lại. Vì thế, bất kỳ sự tăng trưởng nào nảy sinh dưới các thể chế độc tài bòn rút chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.

- Thứ hai, những kẻ thống trị trong các thể chế bòn rút được hưởng lợi rất nhiều bằng mồ hôi và xương máu của đại đa số quần chúng. Vì thế, quyền lực chính trị dưới các thể chế độc tài là một điều thèm muốn khao khát mãnh liệt khiến nhiều nhóm và cá nhân tìm mọi cách loại trừ nhau để chiếm chỗ ngồi cao nhất. Kết quả là sự đấu tranh nội bộ diễn ra gay gắt, khốc liệt khiến xã hội dưới các thể chế độc tài luôn theo hướng bất ổn chính trị.

Khi các mô hình kích thích nền kinh tế cạn kiệt, nền kinh tế sẽ chậm lại như khối Xô-viết vào đầu thập niên 1980 (theo biểu đồ trên). Với tốc độ tăng trưởng trung bình chậm lại ở mức 3,7% hàng năm trong giai đoạn 1970-1975 và tệ hơn, 2,6% trong giai đoạn 1975 đến 1980, nền kinh tế Xô-viết trì trệ là điều không thể tránh khỏi. Dĩ nhiên, khi so sánh hai nền kinh tế của Liên Xô và Đại lục thì mức tăng trưởng của Đại lục đa dạng hơn. Nền kinh tế Đại lục không chỉ dựa vào vũ khí hoặc công nghiệp nặng như Liên Xô, và các doanh nhân Đại lục rất khéo léo biết cách buôn bán và sản xuất các sản phẩm thực dụng vừa túi tiền ra toàn thế giới. Nhưng nếu nhìn vào biểu đồ tăng trưởng trung bình 10% của Đại lục (bên trên), thì kể từ năm 2012, sự tăng trưởng đang chậm dần xuống gần 5%. Dấu hiệu đầu tiên của tiến trình thoái hóa: chậm, ngựng trệ, và sau cùng là có thể sụp đổ. Riêng năm 2020, do cơn đại dịch, các nhà quan sát tiên đoán nền kinh tế Đại lục sẽ mang số âm.

Acemoglu và Robinson giải thích tại sao nền kinh tế của các nước độc tài thất bại. Thưa, chính là thể chế, là cấu trúc thượng tằng chính trị. Thể chế chính trị quyết định các luật lệ cho thể chế kinh tế. Những nước tiêu biểu như Zimbabwe và tập đoàn Mugabe; Sierra Leone và Sir Albert; Somalia và Kediye; Uzbekistan và dòng họ Karimov, thuộc khối Xô-viết trước đây, lần lượt gây ra thảm bại về kinh tế cho đất nước họ chỉ vì những kẻ này duy trì thể chế độc tài, tiêu diệt sức sáng tạo của người dân. Hai giáo sư còn đưa ra những thể chế tại các nước Trung Mỹ, cũng như những nước Đông Âu, thuộc khối Xô-viết. Cụ thể là Ba Lan, một trong những nước thành công của nền dân chủ sau khi khối Xô-viết sụp đổ. Ngày nay, xã hội Ba Lan có sự phân phối thu nhập tương đối ngang nhau, người dân được giáo dục và đào tạo theo đúng kỹ năng, lực lượng lao động đáp ứng sự đòi hỏi của nền kinh tế, tạo nên nền tảng của tầng lớp trung lưu sinh động. Ngược lại, so với Belarus, cũng tuyên bố độc lập sau khi khối Liên Xô tan rã, Alexander Lukashenko nắm giữ quyền hành và duy trì chế độ độc tài từ 1994 đến nay. Lukashenko được mệnh danh là kẻ độc tài cuối cùng tại Âu châu. Bất hạnh cho dân Belarus, vừa thoát được chế độ toàn trị cộng sản lại rơi vào một thể chế độc tài bòn rút khác. Kết quả là nền kinh tế Belarus ngày nay vẫn không khá hơn dưới thời cộng sản bao nhiêu. 

Sự phá hủy sáng tạo rất cần thiết cho nền kinh tế phát triển, nhưng rõ ràng không thể nào thực hiện dưới chế độ độc tài bòn rút. Chính nền dân chủ bảo đảm sự tự do kinh tế dẫn đến sự phá hủy sáng tạo – điều kiện cốt yếu cho nền kinh tế phát triển. Đài Loan và Nam Hàn là hai ví dụ cụ thể. Nền kinh tế của 2 nước này phát triển đều đặn dưới chế độ độc tài, như Liên Xô và Trung hoa Đại lục. Nhưng nếu Đài Loan và Nam Hàn không chuyển đổi sang thể chế dân chủ thì nền kinh tế sẽ dẫn đến cùng một kết thúc như Liên Xô: chậm lại, ngưng trệ, và sụp đổ. May mắn là Đài Loan thiết lập nền dân chủ vào năm 1996, và Nam Hàn vào năm 1993, bảo đảm các quyền căn bản và người dân toàn quyền kinh doanh trong thị trường tự do. Sự phá hủy sáng tạo của nền kinh tế của Đài Loan và Nam Hàn dẫn đến sự phát triển bền vững mãi đến ngày nay. Đến đây, không thể không nhắc đến biến cố Thiên An Môn năm 1989, khi các sinh viên Đại lục đứng lên đòi chuyển đổi thể chế độc tài sang nền dân chủ tự do. Mặc dù có sự đồng tình của Tổng bí thư Triệu Tử Dương, nhưng thật không may cho tầng lớp sinh viên khao khát tự do, nhóm lợi ích thẳng tay dập tắt ngọn lửa dân chủ bằng súng đạn và xe tăng. Nếu tinh thần dân chủ Thiên An Môn năm đó thành công, chẳng ai có thể đoán được tương lai đất nước Đại lục sẽ ra sao nhưng chắc chắn người dân có hoàn toàn tự do để mưu cầu hạnh phúc bằng chính kỹ năng của mỗi người. Sức sáng tạo trong mọi lãnh vực chắc chắn nở rộ và nền kinh tế sẽ vươn lên bền vững chứ không chậm lại như những năm vừa qua, và có cơ nguy sụp đổ trong một tương lai gần.

IV. Lời kết

Quyền lực chính trị là một hấp dẫn khó cưỡng vì nó mang lại danh vọng và bổng lộc làm thỏa mãn lòng tham vô đáy. Lord Acton nói, “Quyền lực có xu hướng làm hư hỏng, và quyền lực tuyệt đối thì đồi bại hoàn toàn.” Chính vì thế, quyền lực tuyệt đối dưới chế độ độc tài thường gây ra những thảm họa về xã hội và thảm bại về kinh tế. 

Thể chế độc tài tập trung quyền lực trong tay một số người, và hầu hết của cải vật chất xã hội cũng bị bòn rút vào tay của nhóm này. Trái lại, thể chế dân chủ bảo đảm các quyền tự do cho người dân, khống chế lòng tham của một vài cá nhân hay một nhóm người có quyền lực, và giúp người dân thăng hoa. Sức sáng tạo của người dân chỉ được phát triển dưới chế độ dân chủ, khi hiến pháp bảo đảm các quyền tự do căn bản trong xã hội và nền kinh tế. Nói đơn giản và dễ hiểu, nếu hai quốc gia có nguồn tài nguyên như nhau nhưng luật lệ khác nhau, người dân của quốc gia có luật lệ hỗ trợ sẽ phát triển tốt hơn người dân của quốc gia có luật lệ cản trở.

Lấy một tiêu chuẩn để đo lường sức sáng tạo của người dân dưới thể chế độ dân chủ và chế độ độc tài. Những phát minh, khám phá, và công trình sáng tạo cống hiến cho nhân loại trong các lãnh vực khoa học được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel hàng năm. Nhìn lại các giải thưởng Nobel từ năm 1901 đến 2015: Pháp đoạt 69, Đức đoạt 108, Anh đoạt 132, và Hoa kỳ đoạt 383, và Đại lục chỉ đoạt 8; trong đó có 4 nhà khoa học sinh ra tại Đại lục nhưng rời quê hương từ lúc nhỏ, học hành và trưởng thành tại ngoại quốc, 2 người đoạt giải Văn chương, 1 người đoạt giải Hòa bình (vì đấu tranh cho nền dân chủ), chỉ duy nhất một người về lãnh vực khoa học là Tu Youyou. Bà sinh ra và hấp thụ hoàn toàn sự giáo dục dưới chế độ độc tài, và là nhà khoa học và phụ nữ Đại lục đầu tiên đoạt giải Nobel Y khoa. Như thế, trong suốt 40 năm (1980-2020), tuy nền kinh tế phát triển vượt bực nhưng Đại lục hầu như không có phát minh nào cống hiến cho nhân loại hoặc sáng kiến nào đáng giá để thúc đẩy nền kinh tế. Nền văn minh đầu tiên của nhân loại phát xuất từ Trung hoa và là một trong 5 cái nôi văn minh của thế giới. Dân Đại lục thông minh, cần cù, và nhiều sáng tạo. Nhưng tất cả tài năng đều không thể phát triển chỉ vì sống dưới một thể chế độc tài, và chính cấu trúc thượng tầng chính trị đã bóp nghẽn sức sáng tạo của người dân. 

Rõ ràng thể chế chính trị quyết định tất cả mọi lãnh vực trong xã hội, kể cả sự sống còn của người dân. Tuy một vài thể chế độc tài bòn rút vẫn thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhưng chỉ trong ngắn hạn. Thể chế dân chủ bảo đảm một nền kinh tế bền vững - điểm then chốt ở đây là sự bền vững, lâu dài, và mãi mãi. Quyền lợi của nhóm bòn rút sẽ làm thui chột sức sáng tạo của người dân, gây bất bình và mâu thuẫn trong quần chúng. Một khi quần chúng bất mãn, nền kinh tế sẽ dẫn đến ba giai đoạn: chậm lại, ngưng trệ, và sụp đổ.

*

Phụ chú:

Tiến trình phá hủy sáng tạo rất cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nhà kinh tế Joseph Schumpeter khẳng định đó là điểm cốt lõi trong nền kinh tế tư bản. Chính các phát minh và sáng kiến đã cải tiến, đôi khi thay thế, hệ thống sản xuất và nhờ đó nền kinh tế tiến triển. Bắt đầu từ cuộc Cách mạng Kỹ nghệ (1760), nền kinh tế tư bản phát triển vững vãng chính là nhờ sự phá hủy sáng tạo. Sự sáng tạo kỹ thuật mới sẽ thay thế kỹ thuật lỗi thời. Sản phẩm sẽ tốt hơn, rẻ hơn. Nhờ đó, đời sống có nhiều tiện nghi hơn, và mức hưởng thụ cao hơn.

Lấy một vài ví dụ qua dòng thời gian:

- Phát minh xe lửa thay thế sự chuyên chở bằng ngựa, trâu bò. Xe hơi thay thế xe lửa. Máy bay cải tiến ngành chuyên chở, du lịch…v...v.

- Sáng kiến “sản xuất dây chuyền” của Henry Ford trong ngành chế tạo xe hơi giúp rút ngắn thời gian sản xuất nhưng đồng thời loại bỏ nhiều công việc khác liên hệ

- Băng từ tính VHS và cassette thay thể đĩa hát, CD thay thế VHS, và cuối cùng DVD và Blu-ray

- Walkman của Sony làm mưa gió vào cuối thập niên 80, và MPMan vào cuối thập niên 90, và sau cùng sáng kiến iPod thay thế Walkman & MPMan, thay thế cả lối thưởng thức nhạc và kỹ nghệ mua nhạc

- Phát minh hệ thống mạng toàn cầu thay thế lối thư từ kéo dài cả mấy trăm năm. Nó cũng loại bỏ nhiều công việc liên quan đến nhiều lãnh vực. Máy điện thoại di động loại bỏ điện thoại nhà…v..v

- Kỹ nghệ thuê mướn phim DVD được thay thế bằng cách kết nối với một trung tâm bằng mạng và xem trực tiếp. Tất cả các hệ thống thuê mướn phim đã bị loại trừ, chỉ còn mỗi Netflix tồn tại 

Schumpeter khẳng định chính sự phá hủy sáng tạo là nhân tố cần thiết để tạo ra một năng suất mới, một thị trường mới. Nhờ đó nền kinh tế cứ vươn lên mãi.

20.06.2020




Bình Luận

Thời Sự

Chuyên đề

 
http://danlambaovn.blogspot.com/search?max-results=50
Copyright © 2014 Dân Làm Báo