Một giải pháp cho Biển Đông (Phần một) - Dân Làm Báo

Một giải pháp cho Biển Đông (Phần một)

I. Nguyên nhân

Bảo Giang (Danlambao) - Người ta tự hỏi, Việt Nam và Trung cộng, đất liền đất, biển liền biển, đôi bên từ mấy ngàn năm trước đã có nhiều trận chiến sống chết với nhau trên đất liền. Nhưng biển, là một chuyện chưa bao giờ có di lụy về tranh chấp giữa đôi bên. Nghĩa là kể từ thời lập quốc, An Nam và Tống Hán nay là Trung cộng hầu như đã chấp nhận một định lệ với nhau là bờ nước bên nam, Nam hưởng lợi. Bờ nước phía bắc, Bắc nương nhờ. Nay tại sao lại có chuyện Trung quốc chèo thuyền sang phía nam, cắm cọc toan tính vớt cá trộm trên vùng biển Việt Nam? Và rồi vì lý do gì, sau nhiều ngàn năm lập quốc, nay Trung cộng lại đẻ ra một cái thành phố mới ở biển nam là nơi họ chưa từng bao giờ biết đến?

Thật ra, câu chuyện ở Biển Đông, từ việc Tàu cộng đánh chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và nay đem cái giàn khoan xuống phía nam, cắm… nhầm vào phần đất, nước của Việt Nam không tự nhiên mà có. Nhưng nó có là nhờ công sức, tâm huyết và tài bán nước của tập đoàn cộng sản dưới sự lãnh đạo tài tình, xảo trá của Hồ Chí Minh mới có. Đơn giản hơn, tất cả những tủi nhục mất đất ở trên bờ, mất đảo ở trên biển của Việt Nam hôm nay đều là do công sức, di sản của Hồ chí Minh, và tập đoàn cộng sản VN tạo ra. Nó được tạo ra giống lá bài của Nga đang diễn ra ở Ukraina.

1. Về nhân vật Hồ chí Minh, Hồ tạp Chương

Trước cảnh đất nước lâm nguy, mất tên của ngày hôm nay, mọi người đều cho rằng: Nếu Hồ chí Minh là Nguyễn tất Thành, thì Y là một tay bán nước hại dân đệ nhất, vượt mặt tất cả những Lê chiêu Thống, Trần ích Tắc, Củ Thị gom lại và xưa nay chưa từng có ai trong lịch sử VN tồi tệ đến như thế. Nếu Y là Hồ tạp Chương đóng vai Nguyễn ái Quốc thì y quả là một tên dấu mặt, nằm vùng siêu hạng. Từ cổ chí kim chưa từng có một tay nằm vùng, dấu mặt nào ở trên thế giới đạt đến cái đích điểm cao như vậy. Nhưng dù là ai, Nguyễn tất Thành hay là Hồ tạp Chương thì cả hai đều là đảng viên cộng sản, cả hai cùng làm trong cục tình báo Đông Dương cho CSQT. Cả hai đều là những ủy viên cốt cán thành lập đảng cộng sản Đông Dương vào ngày 3-2-1930 và là tiền thân của đảng CSVN hiện nay. Sau đó theo tài liệu của sở mật thám Pháp, Nguyễn tất Thành đã chết vì bệnh lao vào năm 1933. Từ đó, Hồ tạp Chương được CSQT chỉ định thế Nguyễn ái Quốc trong vai diễn mới. Tính từ thời điểm này, trên vũ trường chính trị, trong sinh hoạt của đảng cộng sản Đông Dương chỉ còn lại một người với cái tên là Hồ chí Minh nhưng có đến 162 cái mặt nạ dã và đang tạo ra cuộc phá sản toàn diện trên toàn quốc Việt Nam! (tên giả, bí danh, phần này tôi đã viết trong “ Đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi” )

Theo các tài liệu chính thống, cho đến năm 1940, trong số 8 ủy viên trong ủy ban cù bị thành lập đảng cộng sản Đông Dương ở Hồng Kông, lần lượt người thì chết, người thì bị kết án tử hình. Trong số những người này, có một người sống như vợ chồng với Nguyễn ái Quốc trước khi y bị bắt ở Hồng Kông là Nguyễn thị Minh Khai. Sau 1941, chỉ còn lại vài, ba người, trong đó có Hồ Tùng Mậu đang thụ án tù chung thân ở cao nguyên trung phần. Cũng trong năm 1941, một trong hai người ở trên,(Nguyễn ái Quốc hay Hồ tạp Chương) dưới cái tên Hồ Quang đã mang cái lá cờ đỏ một sao vàng là cờ của đảng cộng sản Phúc Kiến xâm nhập vào nội địa Việt Nam hoạt động theo chủ trương liên minh làm một với cộng sản Trung quốc. Theo lời Võ nguyên Giáp, Phạm văn Đồng và Trường Chinh, là những người chưa bao giờ nhìn thấy mặt Nguyễn tất Thành trước kia, đã trở thành tứ trụ của đảng CSVN sau này là do công lao gặp gỡ và bắt đầu tôn phò HCM dưới cái tên Hồ Quang trong thời gian ở Côn Minh (1940), cho biết. Lá cờ này ban đầu chỉ được dùng là cờ lệnh của chủ tịch, nhưng sau ngày cướp được chính quyền thì trở thành cờ của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và nay là CHXHCNVN. Sách lược đầu tiên HCM áp dụng tại Việt Nam theo khuôn mẫu Tầu là cuộc đấu tố, gọi là ải cách ruộng đất 1953-56, với cái chết oan khiên của hơn 172 ngàn người dân Việt Nam. Trường Chinh thì kêu gọi, vận động cho Việt Nam làm chư hầu cho Trung cộng. Phạm văn Đồng thì ký Công Hàm công nhận chủ quyền 12 hải lý của Tàu cộng trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam hiện trực thuộc chính quyến VNCH tại miền nam Việt nam.

2. Vết nhơ nhớp của lịch sử và cái ngu tệ hại của Phạm văn Đồng và CSVN

Cho đến nay, người ta chưa tìm ra được nguyên do đích xác là vì lý do gì Phạm văn Đồng đã ký công hàm công nhận 12 hải lý của Trung cộng ơ hai quần đảo Trương Sa và Hoàng Sa của Việt Nam. Đa số cho rằng, nó có thể nằm ở một trong ba trường hợp sau:

a. Trả chiến phí cho Tàu cộng sau Điện Biên và được lời hứa tiếp tục viện trợ cho bắc Việt hoàn thành nhiệm vụ nhuộm đỏ miền nam.

b. Theo cố vấn Tàu là làm kế giả phân tán lực lượng ở miền nam ra làm hai nơi. Một phải chống đỡ với quân đội của miền bắc. Hai là cả Mỹ có thể phải lâm chiến với Tàu ở hai quần đảo này.

c. Thứ ba là ngu ngốc tin vào chủ trương của HCM (đa phần là Hồ tạp Chương) theo cái thuyết vô tổ quốc, không biên giới. “Bên đây biên giới là nhà, bên kia biên giới cũng là quê hương”, nên Hoàng Sa, Trường Sa có là của Việt Nam hay là của Trung cộng thì cũng đều là nhà, là thành lũy của xã hội chủ nghĩa, chống lại thế giới tư bản?

Nhưng dù bởi bất cứ lý do gì, cái công hàm này đã là nguyên nhân chính gây ra những hậu quả tồi tệ nhất trong lịch sử hơn bốn ngàn năm lập quốc và giữ nước của Việt Nam. Trước hết, Trung cộng có cớ đánh chiếm Trường Sa từ tay Chính Quyền miền nam vào năm 1974. Và lấy nốt từ tay CS bắc Việt vào năm 1988. Từ đó mưu toan thôn tính cả biển đông với cái đường lưỡi bò chín đoạn và tuyên bố thành lập một thành phố mới là Tam Sa trên những vùng biển và đất này.

Xin nhắc lại, Trung cộng không phải mới lập quốc trong vòng một trăm năm qua, nhưng đã tồn tại nhà nước này từ nhiều ngàn năm trước. Và trong lịch sử mấy nghìn năm lập quốc của Trung cộng, có khi tung hoành sang tận Âu châu, nhưng họ không hề biết đến chữ Hoàng Sa và Trường Sa là cái gì. Nó chỉ bắt đầu biết đến vùng quần đảo này từ thời Đệ Nhất Thế Chiến. Đặc biệt, Trung Hoa Dân Quốc là đồng minh của các nước tây phương trong thế chiến thứ hai nên Trung Hoa được giao nhiệm vụ giải giới quân Nhật tại một số đảo trên hai quần đảo này. Rồi sau khi Tưởng giới Thạch rời đất liền, Trung cộng làm chủ và tiếp quản cái bản đồ của phó Đô Đốc Lâm vẽ lại trước khi bỏ chạy khỏi đại lục. Ngay trong thời gian đó, Trung cộng muốn coi đây là vùng đất của mình. Nhưng hội nghị quốc tế ở San Francisco vào năm 1951, Dù được Nga bảo trở, Trung cộng cũng hoàn toàn thất bại với 3 phiếu thuận, 48 phiếu chống, trong việc tranh đoạt chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa với Việt Nam. Giấc mộng Hoàng Sa, Trường Sa và đường lưỡi bò 11 đoạn của Trung cộng coi như đã bị chấm dứt trên trường Quốc Tế sau hội nghị này. Tuy nhiên, nhờ vào cái Công Hàm đi đêm của Phạm văn Đồng ký vào tháng 8-1958, Trung cộng từ từ đặt lại thế cờ mới cho mình trong mưu toan chiếm Biển Đông. Thế cờ này bắt đầu vin vào cái mảnh giấy vụn ký giữa hai nước, nó không có giá trị về mặt quốc tế. 

II. Hệ quả của hôm nay

Cái kết quả tồi tệ của bản Công Hàm này, ngày nay ai cũng thấy. Trước mắt là CSVN không có đủ tư cách để nói đến chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa khi cái Công Hàm của Phạm văn Đồng là bằng chứng sống, còn giá trị sử dụng nằm trên bàn giấy của bọn bành trướng Bắc Kinh. Nghĩa là, đối với nhà cầm quyền Trung cộng, dù không đủ lý, nhưng họ vẫn lấy thịt đè người và cho rằng chính Cộng sản Việt Nam (VNDCCH) đã công nhận chủ quyền của Trung cộng trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thay vì công nhận hai quần đảo này trực thuộc Việt Nam và đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của Miền Nam theo hiệp định Genève 1954về việc phân chia đường biên giới mới. Từ đó, Trung cộng tự cho mình có quyền được hưởng 200 hải lý từ bờ đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo quy ước về luật biển quốc tế đã được công bố năm 1982. Khi tự cho mình cái quyền này, Trung cộng cũng từ chối luôn việc đặt Biển Đông lên bàn đàm phán mang tính đa phương quốc tế. Trái lại chỉ muốn giải quyết trong đàm phán song phương với các đối tác mà thôi.

Tại sao Trung cộng chỉ muốn đàm phán song phương và không muốn có đàm phán chung với các quốc gia trong vùng?

Đơn giản là khi bước vào hội nghị quốc tế về biển đông sẽ không có một quốc gia tham dự nào sẽ công nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa. Sự phủ nhận này sẽ chấm dứt cái ảo giác của Trung cộng là có quyền hưởng 200 hải lý đặc quyền kinh tế từ bờ đất Hoàng Sa và Trường Sa. Dẫn đến kết quả là cái lưỡi bò cũng sẽ bị xóa sổ tức khắc. Dĩ nhiên Trung cộng nắm rất vững lý do này, nên họ luôn theo đuổi chủ trương là giải quyết tranh chấp biển đông theo diện song phương. Bởi lẽ, nếu có đàm phán song phương thì Trung cộng lại có cái lợi thế quá lớn đối với Việt Nam (đối tác quan trọng nhất) vì họ sẽ đặt cái công hàm của Phạm văn Đồng lên bàn hội nghị. Bản Công Hàm này đối với quốc tế là vô giá trị, nhưng nó lại là điều tối kỵ đối với Việt cộng. Khi Cộng sản Việt Nam nhìn thấy nó là tự nhiên bị á khẩu. Bởi lẽ bút tích của họ còn đây. Công nhận Trung cộng có chủ quyền 12 hải lý ở Hoàng Sa, Trường Sa thì có khác gì công nhận Trường Sa và Hoàng Sa là của Trung cộng?

Một khi nhà nước Cộng sản Việt Nam đã công nhận Trung cộng có chủ quyền 12 hải lý thuộc vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa thì họ cũng phải tôn trọng chủ quyền 200 hải lý của Trung cộng tính từ bờ đảo này theo quy ước của Quốc tế về luật biển! Chính ở điểm này đã có một trở ngại lớn, gây ra bất ổn là. Nếu mỗi bên đói cho mình 200 hải lý thuộc đặc khu kinh tế theo quy ước của luật biển tính từ bở đất Việt Nam và từ bờ đất Trường Sa, cũng của Việt Nam do Trung quốc chiếm đóng, khau đặc quyền sẽ đè chồng lên nhau. (vì khoảng cách giữa hai bên không quá bốn trăm hải lý?), Nếu tính từ đảo Lý Sơn thì còn là một trở ngại khác nữa. Theo đó, Trung cộng đã lấy thịt đè người (đè nhà nước Cộng sản Việt Nam chứ không thể đè nhà nước không cộng sản) và chỉ muốn mau chóng mở hội nghị song phương với CSVN (trước khi có thay đổi thể chế ở VN xảy ra?) để tự phân chia cho nhau. Trước là chiếm phần thắng thế, sau là công khai hóa với quốc tế cái kế quả từ đàm phán song phương. Từ đó, nếu không giữ được toàn bộ cái lưỡi bò thì họ cũng chiếm được đến 7,8 phần trên danh chính ngôn thuận, Lý do của sự chủ quan này là phía Trung cộng biết rõ không có trở ngại về phía CSVN. Sau khi trưởng phó phái đoàn VC nhận cuốn sổ băng với ký số đặc biệt làm quà thì hết trách nhiệm. Chuyện Việt Nam mất tên, và dân Việt Nam mất nước cũng chẳng đáng quan tâm!

Từ đó, tôi nghi ngờ rằng, việc TC đẩy cái dàn khoan vào thềm lục địa của Việt Nam có thể là do sáng kiến của nhà nước Việt Cộng. Bởi vì câu chuyện nó không tình cờ khi Nga nuốt chửng Crimea và có thể cả vùng đông bộ Ukraina thì cái dàn khoan của Trung cộng tự động trôi đến bờ biển của Việt Nam. Trái lại, nó phải có kế hoạch, được sửa soạn tính toán của đôi bên. Trước hết, về ngoại giao. Chuyện Nga nuốt Crimea làm cả thế giới đặt vấn đề, phản đối, riêng Trung cộng bất thần bảo vệ Nga một cách khá mãnh liệt. Điều này cũng sẽ đảm bảo rằng, nếu như Trung cộng có chiếm biển đông, đặt nhiều phần đất của Việt Nam vào vị thế của Crimea thì chắc chắn Nga cũng sẽ có đáp ứng tương tự?

Tuy nhiên, tính toán này cũng có bất lợi. Nếu muốn nuốt chửng Việt Nam theo kiểu của Nga ở Crimea thì nhanh quá. Bởi vì Nga đã cho dân của mình tràn qua Crimea và vùng đông bộ Ukraina gần 100 năm qua. Sau ba thế hệ sinh trưởng ở đây theo kiểu Nga, đa phần dân cư địa phương bỏ đi, hay bị đồng hóa qua hôn nhân, tạo ra một tỷ lệ là có nơi lên quá 80 phần trăm là gốc Nga, hay có một nửa dòng máu Nga. Nên việc họ đòi tự trị và xin gia nhập liên Bang Nga không có chi lạ và dễ thành công. Trong khi đó, những tên chạy cờ đang lãnh đạo ở Việt Nam dù đã hết sức cố gắng trong việc để cho Trung cộng đổ quân đội vào Việt Nam dưới dạng công nhân có giấy phép hay không có giấy phép, cũng như tạo điều kiện cho các nhà thầu Trung cộng trúng thầu các dự án trọng điểm hay nhỏ tại địa phương xem ra chưa đáp ứng nổi tình hình, hoặc chưa chuẩn bị kịp. Bởi lẽ, tuy nói là đã có những địa bàn vững chắc, nhưng trong thực tế, vẫn chưa có thể làm nổi những cuộc vận động gọi là từng khu vực tự trị để nuốt Việt Nam trong vòng từ hai đến năm năm nữa. Theo đó, phải kéo cái dàn khoan đặt vào trong thềm lục địa Việt Nam, tạo ra một tình thế mơi.

Trước hết, làm cho câu chuyện rối lên, cho có biểu tình bạo động trên toàn quốc. Làm cho nền kinh tế Việt nam vốn đã trầm kha nay thêm kiệt quệ, công nhân mất việc trải dài trên toàn quốc. Nạn đói kém có thể xảy ra. Trước cảnh tang thương ấy, cán cộng sẽ ngày đêm tính toán quy hoạch thêm các vùng đất dân sinh gọi là phát triển đầu tư để mở rộng việc công an việc làm. Trong thực tế, chỉ là bản vẽ nhảm nhí và kết quả sẽ thêm nhiều phần đất nằm dưới sự kiểm soát của Tàu. Khi dân đã hoàn toàn không còn sức đề kháng, một sách lược tự trị từng vùng sẽ chỗi dậy. Nó bẻ lái Việt Nam nằm hẳn vào trong vòng tay của Tàu cộng như Crimea thuộc về Nga.

Thật vậy, Trung cộng và Cộng sản Việt Nam biết rõ việc đưa một hay vài cái dàn khoan vào thềm lục địa Việt Nam chắc chắn sẽ nổ ra những cuộc biểu tình lớn ở trong nước và có thể tạo ra một số căng thẳng trên trường ngoại giao quốc tế. Mặc, Trung cộng không chú tâm vào cái tiết mục ngoại giao bằng mồm với Mỹ hay với khối Asean (vì Mỹ vẫn được chia phần?). Trái lại, tính toán của Trung cộng sẽ đặt nặng trong vấn đề hội nghị song phương với CS Việt Nam. Theo đó, trong những cuộc biểu tình lớn này, Trung cộng, Cộng sản Việt Nam sẽ không ngần ngại tạo ra những tay trong để tạo ra bạo động, đập phá. Khi có bạo động đập phá, chắc chắn sẽ có tổn thất về cả sinh mạng của người Việt Nam và các công nhân Tàu có giấy phép hay không đang làm việc tại Việt Nam, kể cả giới chủ nhân Tàu, Đài Loan có thể cũng lãnh hậu quả lây. Khi sự việc bạo động lên cao, có tính cách nguy hiểm, sẽ xuất hiện những giải pháp cấp thời được vẽ ra từ trong các cuộc điều đình Song Phương giữa hai nước để đem lại ổn định tạm thời. Đại loại như:

1. Về phía chủ nhân Tàu

a. Việc trước tiên, sẽ có hàng trăm ngàn giấy phép sẽ được ký khẩn cấp cho các công nhân Tàu đang hiện diện hay ồ ạt đổ thêm người vào Việt Nam. (việc Tàu đưa công nhân về nước chỉ là một hành động che mắt mà thôi, một về và có 10 sẽ trở lại mà không ai biết) 

b. Nhà nước VN hứa sẽ bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho các cơ sở của chủ nhân Tàu, và nước ngoài bị đập phá do các cuộc biểu tình bạo động gây ra. Và sẽ có cớ để bắt giữ và ngăn cấm các cuộc biểu tình chống Trung cộng sau này.

c. Việc bảo vệ an ninh cho các cơ sở này sẽ do chính những an ninh của Tàu điều hành. Và những cơ sở này phải được hưởng những quy chế ưu đãi đặc biệt từ nhà nước Cộng sản Việt Nam ban cấp.

d. Và quan trọng hơn cả là, sau những cuộc gọi là thương thảo điều đình, nói chuyện, thỏa ước. Cái dàn khoan vẫn đứng sừng sững ơ vị trí cũ, không một chuyển dời, hoặc có chuyển dời cũng là làm lấy lệ. Bởi vì nhà nước Cộng sản Việt Nam sẽ tài tình dối lừa toàn dân bằng cách thành lập một đại công ty thăm dò Dầu Khí trên biển đông với Trung cộng và cái dàn khoan kia là một trong những đơn vị trúng thấu, hợp tác thi công dưới sự kiểm soát của nhà nước Việt Nam...thế là hết câu chuyện. Thế là tàu thuyền của ta từ từ được khoanh vùng, cấm chỉ đến gần cái gian khoan đang khoan trên đất Việt.

2. Về số phận Việt Nam sẽ được định đoạt như sau:

a. Những cuộc biểu tình bị ngăn chặn, bị mệt mỏi và không thu hoạch dược kết quả nên càng lúc càng thưa dần. Tệ hơn, càng biểu tình càng giúp cho rất nhiều công nhân không tay nghề của Tàu trước đây không có giấy nhập cảnh, nay cấp thời có giấy nhập cảnh chính thức. Hơn thế, cánh của biên giới sẽ ồ ạt cấp giấy phép nhập cảnh cho Tàu cộng vào Việt Nam. Dĩ nhiên, cái thời hạn làm việc cũng không được nhắc đến trong những giấy nhập cảnh này. Ấy là chưa kể đến việc quân đội và đội công an của tàu cộng với số lượng hạn chế, chính thức sang Việt Nam để bảo vệ công nhân và tài sản của họ.

b. Việc cấp giấy phép nhập cảnh ồ ạt này sẽ tạo nên cảnh công nhân Việt Nam ngồi chơi đi kiếm nước sông, nước biển mà uống cho qua ngày, phần công việc trong các cơ sở của người Tàu, Đài Loan làm chủ thì rất hạn chế. Trong khi đó các cơ sở sản xuất của Việt Nam thì không có. Nếu có thì cũng qúa ít ỏi. Riêng các công sở thì chỉ đủ chỗ cho các đoàn đảng viên và thân nhân của họ, người dân không có mấy cơ hội tìm được công ăn việc làm trong những cơ sở này. Nếu có thì lại phải chống Tàu theo định hướng của đảng.

c. Kế đến, sau những cuộc đình công, bãi thị bạo động, nhiều cơ sở vi bị đốt cháy gây ra nhiều thiệt hại cho phía chủ nhân, nay phải tính đến chuyện bồi thường. Dĩ nhiên nhà nước sẽ không chịu trách nhiệm này. Riêng phía các công nhân Việt Nam từ những cuộc đình công bạo động ấy được coi như đã tự ý bỏ sở không muốn làm việc nữa, nên họ, bề mặt nhà nước và giời chủ nhân Tàu kêu gọi họ trở lại làm việc. Nhưng trong thực tế mỗi người trở lại sẽ phải ký giấy cam kết với những điều kiện khắt khe như: Chấp nhận giảm ít nhất từ 5% đến 10% tiền lương để bù vào những thiệt hại, tổn thất do các cuộc đình công, bãi công và cơ sở bị đập phá, gây ra. Kế đến phải chấp nhận không được đòi tăng lương trong thời hạn, vài, ba năm để bù cho những thiệt hại này. Từ đây tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh từ ban giám đốc của cơ sở. Bất cứ ai tham gia vào các cuộc biểu tình “ trái pháp luật” đểu bị sa thải và không được bồi thường vì mất việc, v. v. Ai đồng ý thì trở lại làm, ai không thì mời về. Mới nghe thì ai cũng bực minh, nhưng mười người như một, sau đó lại phải xếp hàng nộp đơn và ký kết vào bất cứ một thứ giấy tờ nào do phía chủ nhân đưa ra. Lý do, vì không có công ăn việc làm, nên mất 5% chứ đến 10% cũng phải ký!

d. Vì an ninh hãng xưởng do Tàu quản trị, nên tất cả các công nhân có thể bị dặt trong hệ thống kiểm soát lúc vào cũng như khi về, và tất cả mọi điều kiện làm việc sẽ gặp khó khăn hơn. Dĩ nhiên, nhà nước Cộng sản Việt Nam sẽ không được phép can thiệp vào những điều khoản do chủ nhân Tàu đưa ra. Kể cả việc phải chấp thuận cho an ninh bảo vệ cơ sở đến từ Trung cộng!

e. Đời công nhân từ đây sẽ là đời nô lệ. Trí thức của xã hội chủ nghĩa cũng thành những nô lệ.

f. Rồi công an Cộng sản Việt Nam trên đường phố cũng trở thành những tên nô lệ cho đám công nhân và chủ nhân Tàu nốt. Bởi lẽ, chính họ sẽ là lực lượng được chủ nhân Tàu ưu ái trong việc giới thiệu người vào các cơ sở của Tàu, mà ưu tiên một chính là vợ con và thân nhân của họ. Trường hợp như thế xảy ra, họ có phải là kẻ đứng khoanh tay cúi đầu chào công nhân Tàu khi chúng ra phố hay không? Hỏi có dám can thiệp vào trong những vụ va chạm giữa người Tàu và người Việt trên đường phố để bảo đảm an ninh chung không? Câu trả lời đã có sẵn!

g. Kế đến, một lớp người mới nổi lên là phong trào các cô gái Việt Nam phải lấy công nhân Tàu. Vài năm sau tất cả có quốc tịch Việt Nam. Dĩ nhiên nhiều người lúc đầu thì bĩu môi, nhưng sau đó lại thèm muốn được là một trong những “ nàng may mắn” trong những cuộc hôn nhân này. Bởi lẽ, họ có công ăn việc làm, họ được ưu đãi. Xin nhớ, với sách lược chỉ có một con do Tàu cộng chủ trương từ nhiều năm qua, số lượng phụ nữ trên đất Tàu vô cùng khan hiếm. Tràn sang Việt Nam sẽ là một phong trào mới, sẽ đến?

h. Sau năm năm kế hoạch này thành công, nơi nào cũng đầy người Tàu. Đến khi đó, không cần phải phát thanh lại chủ trương của đảng cộng sản do Cộng sản Việt Nam Đặng xuân Khu đè ra, cũng không cần đến Phạm Vũ Luận ra kế hoạch, trẻ em Việt Nam tự động đứng xếp hàng để xin học tiếng Tàu. Bởi lẽ, có nói được tiếng Tàu ở trên đất Việt mới dễ kiếm công ăn việc làm? Khi đó Tổ Quốc Việt Nam của chúng ta sẽ thành tổ cò của Việt cộng và Trung cộng!

i. Và cái đoạn cuối sẽ kết thúc giông hệt như ở Crimea và đông bộ Ukraina. Sau 70 năm bành trướng của Cộng Sản Liên Sô, thế hệ đầu tiên tràn sang Ukraina và được ưu đãi, sang đến thế hệ thứ hai, ở đâu cũng chỉ thấy toàn dân Nga, thân Nga nắm các chức vụ trọng yếu từ công quyền cho đến các cơ sở sản xuất, nên chuyện đòi tự trị, rồi xin sát nhập vào Nga cũng không có gì lạ. Nó là một kịch bản. Bởi đây là một kế hoạch đã hoàn chỉnh.

III. Bức tranh ảm đạm này có tái diễn ở Việt Nam hay không?

Theo tôi, Việt Nam cũng chỉ là một trong những kế hoạch ấy của Trung cộng, và tình từ con cờ Hồ chí Minh, dù Y là Nguyễn Tất Thành hay là Hồ Tập Chương thì nay cái thời điểm 70 năm để cho Nga tràn sang Ukraina cũng đã gần kề. Nếu chúng ta, những người Việt Nam ở trong nước cũng như ở ngoài nước, trước nguy cơ mất tên Việt Nam mà không có một kế sách toàn vẹn cho biển đông, chuyện Việt Nam mất tên cũng sẽ không quá lạ. Bởi vì từ hơn 50 năm trước, ông Ngô đình Nhu đã tiên đoán về số phận của Việt Nam là: “Nếu miền nam mất vào tay cộng sản Bắc Việt, thì chuyện Việt Nam trở thành một tình bang của Trung cộng chỉ còn là chuyện của thời gian mà thôi”. Theo đó, câu chuyện tôi viết ở trên không phải là câu chuyện bi quan, yếm thế. Trái lại, nó đang là câu chuyện rất gần. Nó là câu chuyện của thời gian đang đến. Mỗi ngày nó tiếp tục với những tái diễn và tái diễn. Nó sẽ có cái đoạn kết giống Crimea trong vòng 5 năm tới, nếu cái tập đoàn cộng sản vẫn còn ngự trị trên mảnh đất Việt Nam

(Còn tiếp)

Kỳ sau: Một giải pháp cho toàn bộ vấn đề Biển Đông,



Bình Luận

Thời Sự

Chuyên đề

 
http://danlambaovn.blogspot.com/search?max-results=50
Copyright © 2014 Dân Làm Báo