Hoàng Ngọc Diệp (Tiền Vệ) - Các con yêu thương, trước khi ngủ, các con hãy nghe một câu chuyện cổ tích Bố kể, có thể giấc ngủ của các con tối nay sẽ là một cơn mộng dữ, có thể các con sẽ hãi sợ trong khi đang ngủ. Nhưng đừng lo, khi các con thức dậy, cùng với ký ức của câu chuyện này và cơn mộng dữ đó, các con sẽ thấy rõ hơn đâu là Sự Thật, sự Ảo Tưởng và sự Xảo Trá trong mỗi ngày của cuộc đời của chúng ta.
Hãy nhắm mắt lại, thở đều và nghe Bố kể đây...
Ngày xưa, tại bộ lạc Tây Cực, một bộ lạc rất đông dân, sống biệt lập cách xa mọi bộ lạc khác bằng nhiều tháng trường băng rừng vượt sông qua núi. Vào một năm nọ, bộ lạc Tây Cực bị thiên tai, một loại bệnh dịch súc vật tràn lan giết mọi loài gia súc, đặc biệt là đàn bò. Chúng đã là nguồn cung cấp sữa và thịt chính cho cả bộ lạc qua bao nhiêu thế hệ, nhưng đột nhiên chúng bị chết gần hết chỉ trong một thời gian rất ngắn. Số ít còn lại được tập trung vào một chỗ cách xa mọi người và chỉ có một số người thân tín nhất của ông tân lãnh đạo bộ lạc — ông ta vừa lên thay vị tộc trưởng vừa qua đời vì bệnh dịch trước đó vài tuần trăng — mới được quyền chăm nuôi những con bò cuối cùng này vì e rằng những con bò duy nhất còn sống sót có thể bị nhiễm bệnh mà chết.
Một hôm, ông lãnh đạo bộ lạc bảo với người dân của bộ lạc rằng đàn bò chết hết rồi, không còn lấy một cặp bò nào để tiếp tục giữ giống! Và từ rày về sau không ai còn có sữa và thịt bò để ăn và uống nữa! Người dân than khóc và vô cùng lo lắng vì nguồn dinh dưỡng chính của bộ lạc không còn nữa.
Ông lãnh đạo này bảo họ hãy đừng than khóc mà hãy cùng ông ta thực hiện một việc quan trọng hơn, có tính lâu dài hơn và tránh được mọi tai ương cho tương lai của ngàn năm sau. Đó là: hãy cùng ông ta biến nước lã thành sữa, biến cỏ rừng thành thịt bò.
Ông ta dạy rằng từ nước con bò uống mới tạo ra sữa, do đó gốc của sữa là nước; và từ cỏ rừng con bò ăn mới tạo ra thịt, do đó, gốc của thịt bò là cỏ rừng. Ông ta lấy tính mạng của chính ông ta để xác nhận là ông đã có một phép màu tạo sữa từ nước và tạo thịt từ cỏ rừng với điều kiện là mọi người đều phải có lòng tin tuyệt đối và làm theo lời ông ta.
Ông ta dạy rằng trước mỗi lần uống nước mọi người phải niệm “vì ngàn năm no ấm” và tự tìm chất béo, chất ngọt trong sữa, thì sau một thời gian mỗi ly nước sẽ biến thành một ly sữa. Và sau khi hầm cỏ rừng một buổi với muối, để nguội và trước khi ăn phải niệm “vì ngàn năm giàu mạnh” và cố tìm vị ngọt và chất xơ của thịt trong cỏ rừng đã hầm nhừ nát, thì sau một thời gian mỗi chiếc đĩa đầy cỏ rừng sẽ biến thành một đĩa thịt bò nấu chín.
Sau nhiều năm tháng, người dân của bộ lạc vẫn than khóc vì ngày càng đói, càng gầy, họ than van với ông ta là họ đã làm theo lời ông dạy nhưng không có kết quả. Ông ta dạy rằng vì có một số người làm theo lời ông ta dạy nhưng trong lòng không tuyệt đối tin nên phép màu của ông chưa linh nghiệm! Cho nên, vì sự nghiệp ngàn năm no ấm và giàu mạnh của bộ lạc, ông ta ra lệnh bắt buộc mọi người phải có lòng tin tuyệt đối, bất cứ ai chưa tin tuyệt đối thì sẽ bị coi như là những người chống lại sự sống còn, sự no ấm và giàu mạnh của bộ lạc, và phải bị loại bỏ! Ông ta cũng ra lệnh mọi người phải theo dõi và đánh giá người gần bên mình, ngay cả cha mẹ, vợ chồng, anh em ruột thịt, để phát hiện kẻ không tin tuyệt đối. Nếu ai phát hiện mà không tố cáo thì cũng bị loại bỏ vì chứa chấp bọn phá hoại bộ lạc. Và những ai phát hiện ra kẻ phá hoại thì sẽ được tưởng thưởng hậu hĩ!
Những năm tháng sau đó là những năm tháng tối tăm nhất của bộ lạc, mọi người vừa gầy đói, vừa lo sợ vì nhìn thấy quá nhiều người bị giết bởi tội “không có niềm tin tuyệt đối” vào sự nghiệp “ngàn năm no ấm và giàu mạnh” và vào pháp thuật của ông lãnh đạo bộ lạc.
Một số người vì quá đói khát, hay có thể vì muốn cuộc sống tốt hơn, đã bắt đầu tố giác một số người mà họ nghi ngờ là chưa tin tuyệt đối. Những kẻ tố giác được tưởng thưởng khá hậu hĩ như ông lãnh đạo đã hứa, cũng như được cân nhắc lên những vị trí cao hơn trong bộ lạc, và tất nhiên những người bị tố giác được giải quyết rất công minh: họ bị xử tử trước mặt mọi người để làm gưong cho bất cứ ai có ý đồ chống lại ông ta, nghĩa là chống lại sự trường tồn của bộ lạc!
Thấy việc tố giác có thể là cơ hội thoát đói khá dễ dàng, một số người dân đã làm theo gương những người tố giác trước đó. Chỉ cần họ nghi ngờ, hay ngay cả không hề có chứng cớ, nhưng vì quá đói, họ tự tưởng tượng ra chứng cớ để tố giác. Họ được tưởng thưởng, và những người họ tố giác bị xử tử ngay nên không có bằng chứng gì có thể biết là họ tố giác những người thật sự có tội phá hoại bộ lạc hay những người vô tội!
Hàng xóm thân tình trở thành những người cần phải tránh tiếp xúc, rồi tệ hơn nữa, vợ chồng, con cái, anh em, không còn dám tin nhau, không còn dám tâm sự với nhau, mọi cử chỉ động tác lời nói đểu phải cảnh giác cao độ! Từ đó mọi quan hệ gia đình hàng xóm của cả bộ lạc bị đổ vỡ! Và để tự vệ, tránh bị tố giác oan uổng, hầu hết mọi người dân trong bộ lạc đểu học cách thể hiện lòng tin tuyệt đối với sự nghiệp cao cả của bộ lạc và pháp thuật của ông lãnh đạo bộ lạc, cho dù họ là những người thật lòng tin, hay chưa tin đủ hay, chưa bao giờ tin! Họ áp dụng cách thể hiện này rõ ràng minh bạch đến nỗi không ai còn có thể tố giác oan ai hết!
Rồi đến lúc sự bất tín giữa mọi con người trong bộ lạc đó tới đỉnh điểm! Khi đó không ai có thể nhận diện ra người tốt, kẻ xấu, người hay, kẻ dở! Khi có một số người bỏ trốn khỏi bộ lạc vì chịu không nổi sức ép của sự cố gắng giả dối thì cả gia đình, bà con, bạn bè thân quyến của họ đều bị đày đọa, bỏ đói, đánh đập dã man! Để làm gương cho những người dám cưu mang ý định trốn bỏ bộ lạc!
Trong thời gian đó, pháp thuật của ông lãnh đạo vẫn chưa có dấu hiệu gì chứng tỏ có thể ứng nghiệm, nhưng vì tuổi già sức yếu nên ông ta đã qua đời. Những người phục vụ quanh ông ta và những người có lòng tin vào ông ta một cách tuyệt đối vô cùng đau khổ. Những người khác thì im lặng, bối rối không biết làm gì tiếp theo, và có một ít người mừng thầm trong lòng vì nghĩ rằng sẽ thoát được các pháp thuật không thể xảy ra trên trần gian.
Nhóm thân cận phục vụ ông ta kêu gọi bộ lạc đến với nhau và tuyên bố rằng trước khi qua đời, ông ta đã truyền phép màu lại cho họ, và vì sự nghiệp “ngàn năm no ấm và giàu mạnh” của bộ lạc, vì phép màu của ông ta sắp ứng nghiệm,vì sự hy sinh và tấm lòng cao cả của ông ta dành cho bộ lạc, họ sẽ đại diện cho ông ta để đứng ra lãnh đạo bộ lạc và tiếp tục xây dựng công cuộc “ngàn năm no ấm và giàu mạnh”. Và như vậy, sự hy sinh và dâng hiến từ mọi người của bộ lạc cho sự nghiệp cao cả của ông ta vẫn tiếp tục!
Họ ướp xác ông ta, xây dựng một lâu đài nguy nga để đặt xác ông ta nằm đó như nhân chứng sống cho mọi người dân. Họ cũng không quên xây dựng hình ảnh vĩ đại cho ông ta mà hầu như mọi vị lãnh đạo vĩ đại của bộ lạc qua bao nhiêu đời trước khó có thể so sánh bằng. Tất nhiên không ít người dân đã hy sinh một cách cao cả trong giai đoạn xây dựng tòa lâu đài này vì đói khát và kiệt sức.
Nhóm lãnh đạo mới này quyết định đưa ra thêm nhiều câu tụng niệm khác cùng với các câu tụng niệm mà cố lãnh đạo vĩ đại đã truyền dạy, để mọi người đọc đồng thanh trước khi ăn uống, trước khi ngủ và khi vừa thức dậy. Mọi đứa trẻ trong bộ lạc đều được phát một chiếc khăn màu đen khi có khả năng kể một mẩu chuyện về sự nghiệp của cố lãnh đạo vĩ đại hoặc tự sáng tác ra một câu chuyện thuật lại một việc làm đầy ý nghĩa của ông ta, cho dù những đứa trẻ này chưa bao giờ biết về ông ta ngoại trừ những gì chúng nghe từ nhóm lãnh đạo mới. Những sáng tác này được cẩn thận ghi chép lại thành một phần cuộc đời “thật” của cố lãnh đạo vĩ đại. Không ai dám hỏi nhóm lãnh đạo mới này là lúc nào sẽ hết đói vì chắn chắn sẽ bị giết chết bởi đã tự chứng tỏ không có lòng tin tuyệt đối vào phép màu của cố lãnh đạo vĩ đại!
Nhưng chỉ vài năm sau khi cố lãnh đạo vĩ đại qua đời, nhóm lãnh đạo mới cùng gia đình của họ bắt đầu có dấu hiệu khoẻ ra, béo ra hơn những người dân của bộ lạc. Mọi người không thể cưỡng lại sự thắc mắc của riêng mình nên bắt đầu có những lời đồn đại khác nhau.
Những người tuyệt đối tin yêu cố lãnh đạo vĩ đại thì bảo với nhau là phép màu của ông ta bắt đầu ứng nghiệm, nhưng hiện chỉ ứng nghiệm tới các cấp lãnh đạo, và nhất định sẽ tới phiên con dân như mình rất sớm thôi. Và điều này làm nhóm lãnh đạo rất vui lòng.
Nhưng cũng có những lời đồn đại khác cho rằng những con bò còn sống sót trước kia chưa hề chết và họ chỉ nuôi cho nhiều hơn để phục vụ riêng cho nhóm lãnh đạo. Hay người ta cho rằng nhóm lãnh đạo đã tìm ra một loại súc vật khác tạo sữa và thịt tốt như những con bò nhưng dấu kín vì sợ không đủ cho mọi người, v.v... Nhóm lãnh đạo rất phẫn nộ đối với các lời đồn đại này và cho lính tráng đi tìm giết bất kỳ ai đưa ra hay lập lại những lời đồn đại này! Họ thà giết oan hơn bỏ sót!
Chỉ sau một thời gian ngắn chém giết chết chóc, một vài ông trong nhóm lãnh đạo và một số quân nhân cao cấp vẫn còn lòng nhân đạo đã không thể chịu đựng nổi, nên đứng về phía người dân chết oan và chính thức xác nhận rằng đàn bò chưa hề bị chết và nay đã đông hơn. Họ tuyên bố rằng nhiều năm qua những người thân cận của cố lãnh đạo vĩ đại đã chăm nuôi và lấy sữa thịt chia nhau để có đủ sức khoẻ mà quản lý bộ lạc. Họ yêu cầu nhóm lãnh đạo tạo điều kiện cho người dân tự nuôi bò bằng cách phân phát những con nghé cho người dân.
Nhiều người trong thành phần phản tỉnh này bị giết chết, bị lưu đày vào rừng sâu, một số người bị xem là bị bệnh điên và đưa ra vùng sống cách ly bên kia ngọn núi.
Mặc dù đã giải quyết những người quay lại chống guồng máy lãnh đạo, nhóm lãnh đạo vẫn thấy không ổn và xét thấy rằng có thể phải đối đầu với nội chiến và chống trả bằng bạo lực bởi người dân, vì vậy, họ quyết định giết tám phần của đàn bò và phân phát thịt sữa cho dân, họ bảo rằng đây là sự ứng nghiệm của phép màu của cố lãnh đạo vĩ đại, phép màu đã tạo ra một đàn bò nhiều thịt và sữa cho bộ lạc chỉ trong một thời gian ngắn và mọi người hãy thưởng thức và nhớ ơn ông ta.
Những người có lòng tin tuyệt đối cảm động khóc ròng và ăn uống chậm rãi phần thịt sữa được ban phát để kéo dài thời gian chứng tỏ lòng tôn kính đối với cố lãnh đạo vĩ đại. Những người dân khác thì ăn hết ngay vì quá đói khát và cũng vì sợ bị tịch thu lại nếu để lâu.
Nhóm lãnh đạo cũng quyết định rằng vì số lượng bò còn sống từ phép màu của cố lãnh đạo vĩ đại quá ít cho nên chỉ những người biết phép màu mới được chia phần để nuôi. Bên cạnh đó, nhóm lãnh đạo ban chỉ thị rằng theo lời của cố lãnh đạo vĩ đại báo mộng cho họ thì, để bù lại, mọi người dân được quyền tìm cho mình thức ăn nước uống bổ dưỡng bằng mọi cách và từ mọi nơi, nhưng người dân phải có bổn phận tiếp tục triệt để áp dụng tụng niệm truớc khi ăn uống. Họ xác nhận rằng các quyết định này cũng chỉ theo đúng ước nguyện của cố lãnh đạo vĩ đại là tất cả vì người dân và vì sự nghiệp “ngàn năm no ấm và giàu mạnh” của bộ lạc.
Lần đầu tiên trong hơn nửa thế kỷ đói nghèo, mọi người dân được tự tìm cách sống còn và phát triển, họ cùng nhau ngày đêm lấp sông, phá núi, săn mọi loại thú, đốn mọi loại cây. Chỉ trong vòng vài năm bộ lạc bớt đói nghèo, mọi người đều mập mạnh ra.
Những người có lòng tin tuyệt đối vào cố lãnh đạo vĩ đại thì cho rằng quả là phép màu của ông ta quá hiệu nghiệm và linh thiêng, họ lập những am miếu to lớn để thờ cúng ông ta. Những người không tin vào phép màu của ông ta nhưng đã có địa vị trong bộ lạc vì trước kia có công tố cáo những người dân “phá hoại bộ lạc”, hay những người trung thành và thực thi nghiêm chỉnh các mệnh lệnh của nhóm lãnh đạo, thì luôn nhìn quanh để chiếm lĩnh cho được các thành quả của người dân đen tự làm được.
Sau chừng 10 năm, bộ lạc Tây Cực trở thành một bộ lạc thoát nghèo! Nhưng người dân vẫn phải tụng niệm các câu thần chú của cố lãnh đạo vĩ đại và do nhóm lãnh đạo đưa ra. Bất kỳ ai dám đặt câu hỏi về tư cách của cố lãnh đạo vĩ đại hay nhóm lãnh đạo bộ lạc thì sẽ bị xử lý đích đáng. Trẻ em được dạy rằng trung thành với nhóm lãnh đạo là trung thành với bộ lạc, và tụng niệm và tôn vinh cố lãnh đạo vĩ đại thì sẽ được các điều kiện thuận lợi để làm giàu khi trưởng thành.
Mọi người được khuyến khích làm giàu bằng mọi cách thức. Người dân bình thường, vì qua nhiều thế hệ đói nghèo, chết chóc, thì cố gắng mọi cách để dành dụm trong thời gian ngắn nhất, không bao giờ dám nghĩ tới những kế hoạch quá lâu dài. Họ được nhóm lãnh đạo và các thành phần quyền lực của bộ lạc chỉ dẫn cách đút lót, cung phụng để được sống yên lành và phát triển. Những ai không chịu sống theo cách hướng dẫn này thì phải bị cô lập. Những ai ra mặt chống đối và cho đó là tham nhũng thì bị gán tội phá hoại bộ lạc và xử lý, tuy những người phạm tội phá hoại bộ lạc không còn phải bị xử tử hết tất cả như xưa, nhưng họ bị biệt giam cho tới chết và gia đình dòng họ vẫn cứ phải bị đày đọa như xưa.
10 năm tiếp theo là giai đoạn của sự phát triển hỗn mang. Những người biết nịnh hót và sẵn sàng làm mọi điều bất lương thì trở thành giàu có và được trọng vọng. Những người trung thành và có lòng tin tuyệt đối vào cố lãnh đạo vĩ đại và nhóm đang lãnh đạo thì được sống yên ổn nhưng không có gì đặc sắc. Nhóm lãnh đạo và gia quyến trở thành giàu có và quyền năng nhất, nhưng bề ngoài ra vẻ rất khiêm tốn. Phần còn lại của bộ lạc đều chỉ tạm đủ để sống qua ngày, tất nhiên có phần đỡ hơn so với các thế hệ trước.
Mỗi khi có ai than thở vì còn nghèo, thì họ được củng cố tinh thần bằng những lời khuyến khích rằng phép màu của cố lãnh đạo vĩ đại mất nhiều thời gian, mất nhiều sự hy sinh vì đây là sự chuẩn bị cho cả ngàn năm no ấm và giàu mạnh của bộ lạc. Bên cạnh đó, họ cũng được nhắc nhở về những cái chết đau đớn của những người dám để lung lay lòng tin tuyệt đối đến vào cố lãnh đạo vĩ đại và sự nghiệp “ngàn năn no ấm và giàu mạnh” của bộ lạc!
Nhưng dấu hiệu cho thấy sự đói nghèo sẽ phải sớm trở lại và tất cả mọi người trong bộ lạc đều lo ngại, kể cả nhóm lãnh đạo và gia quyến của họ. Dòng sông và những nhánh sông nhỏ bị ô nhiễm, khô cạn, cá và các loại thuỷ sản còn rất ít, rừng xung quanh bị hủy hoại nên sau mỗi đợt mưa to là lũ lụt cuốn trôi mọi cây cỏ, mùa màng bị thất bại liên tục.
Những lời đồn đại mới bắt đầu xuất hiện cho rằng nhóm lãnh đạo và gia quyến đang từ từ chuyển dần tài sản đến nơi khác trù phú hơn, hoặc họ cùng với những người tùy tùng đã bắt đầu bàn thảo với một số bộ lạc khác để sang đó tá túc.
Để đối phó với những lời đồn đại, nhóm lãnh đạo ra lệnh càn quét bất cứ ai bàn tán hoặc ngay cả chỉ nghe những lời đồn đại này. Nhóm lãnh đạo cũng liên tục gặp gỡ và khẳng định với người dân là họ sẽ cùng người dân tranh đấu cho tới giọt máu cuối cùng để xây dựng một bộ lạc Tây Cực ngàn năm no ấm và giàu mạnh, mặc dù gia đình con em của nhóm lãnh đạo đã lẳng lặng biến đi đâu mất, và không ai trong bộ lạc có thể thấy họ nữa.
Lúc đó, người dân đã khoẻ mạnh hơn, họ cũng đã ngấm ngầm dự trữ lương khô để đối phó với nạn đói có thể xảy ra trong tương lai. Vì vậy, khi trận càn quét trở thành khốc liệt, người dân bình thường và gia đình của họ từ từ trốn bỏ bộ lạc, họ đi vào rừng, vượt núi tìm nơi trú ẩn kín đáo để tránh bị giết chóc.
...
Và rồi... Nhiều năm sau, ở bộ lạc Tân Nam, cách khu vực của bộ lạc Tây Cực bảy ngọn núi, có một ông già sống cô độc và cách biệt ở bìa rừng của bộ lạc, mọi người đều quý ông nhưng ít ai có thể tới gần để nói chuyện với ông. Mỗi bình minh và hoàng hôn họ đều thấy ông đứng bất động nhìn về phía bên kia dãy núi, hướng về phía Tây Cực như một bức tượng.
Trước khi qua đời, vị tộc trưởng bộ lạc Tân Nam gọi mọi người thân cận đến và dặn dò rằng bộ lạc phải để cho ông già yên ổn và phải chăm sóc ông ấy mỗi khi cần thiết vì ông ấy là nhân chứng duy nhất còn sót lại của một bộ lạc không còn tồn tại nữa trên trần gian.
Vị tộc trưởng bộ lạc Tân Nam giải thích rằng ông ta tìm thấy người này trong rừng sâu đang bệnh nặng và đói khát, khi đó người này còn trong tuổi thanh niên. Sau khi chữa trị và tìm hiểu, người này đã cho biết anh ta là người sống sót duy nhất từ bộ lạc Tây Cực. Khi bộ lạc ấy gặp phải tai ương bệnh dịch gia súc, có một quái vật đã hiện hình thành một ông lãnh đạo khả kính, bịa ra pháp thuật giả để dụ dỗ nhiều ngưởi tin theo, rồi biến những người cả tin ấy và những kẻ xu nịnh khác thành những kẻ nô lệ dưới sự thống trị của nó. Sự thống trị càng ngày càng khắc nghiệt. Nó cưỡng bách dân bộ lạc Tây Cực phải áp dụng những thứ pháp thuật giả ấy, và nó tiêm nhiễm lòng thù hận, nghi ngờ, ganh tị, tham lam, xảo quyệt, độc ác và mọi điều xấu xa nhất vào mọi người dân qua những viễn ảnh rực rỡ vĩ đại nhất của trần gian có danh xưng là “công cuộc ngàn năm no ấm & giàu mạnh”. Từ đó, sau một thời gian bị tiêm nhiễm, chính người dân tự tiêu diệt mẹ thiên nhiên, tiêu diệt lẫn nhau và phần ít còn lại phải trốn bỏ quê hương.
Vị tộc trưởng bộ lạc Tân Nam còn căn dặn rằng, trong tương lai, khi có một người hay một nhóm người từ xa, hay chính từ trong bộ lạc này, tuyên bố rằng họ có pháp thuật để giúp bộ lạc đạt đến cõi thiên đàng thì đừng tin theo, mà hãy mời người già này ra làm nhân chứng vì chính ông ấy là một chiếc kính chiếu yêu để nhận diện loài quái vật đội lốt con người.
...
Các con hãy ngủ đi và nằm mơ thấy mình như ông già sống sót từ Tây Cực, để hiểu và cảm nhận những kinh nghiệm và sự đau khổ của những người không còn tổ quốc, và khi thức dậy, các con sẽ có một chiếc kính chiếu yêu nhận diện được đâu là sự thật, ảo tưởng, ảo vọng và sự xảo trá, và từ đó nhìn ra loài quái vật đội lốt người đang trà trộn trong nhiều tầng lớp của xã hội hôm nay!
Thương các con nhiều lắm.