Chuyện “con đỏ” nước mình - Dân Làm Báo

Chuyện “con đỏ” nước mình


Dr. Nikonian - Những “con đỏ” nước mình sẽ còn bị “vùi dưới hầm tai vạ” với những dự án ngạo ngược “thay trời làm mưa, thay mưa làm trời” cho đến bao giờ?...

S., bạn tôi là một chuyên gia quốc tế về chính sách y tế và môi trường. Đi nhiều, biết nhiều hiểu rộng, tính tình xởi lởi… S. về thăm nhà với cuốn passport dày cộp đóng dấu chi chít. Thì vẫn như mọi người xa xứ lâu năm, S. rất hào hứng nói về sự thay đổi nhanh chóng của quê nhà. Vui nhiều, nói rất nhiều.

Chợt thấy tôi chỉ im lặng ngồi nghe, không biểu lộ gì, S. khựng lại, nói như phân trần:

-      Thì em thấy nước mình cũng khá lên đấy chớ anh. Chỉ có  giáo dục, y tế, môi trường là kém đi thôi (?)

Yên lặng hồi lâu.

Ta hãy thông cảm với S., kẻ xa xứ lâu năm. Hãy tôn trọng quyền được vui, phấn khởi của S. với sự hào nhoáng rất dễ thấy trên phố phường. Tôi cũng vui, huống hồ gì S.

“Chỉ có giáo dục, y tế, môi trường là kém đi thôi!”. S. nói điều đó sau khi đọc những báo cáo chi chít con số của UNDP. Còn tôi, tôi hiểu điều đó từ rất nhiều trải nghiệm về sự tan hoang đến mức thê thảm của rất nhiều đồng quê Việt.

Từ những khu rừng bị chặt trụi đến gốc cây non cuối cùng ở Tánh Linh, Bình Thuận.

Từ những cơn lũ trắng xoá, ngập lút những mái tranh nghèo ở Tuy Phước sau khi những dự án thuỷ điện xả lũ vô tội vạ.

Và từ một miền Tây phú túc, từng “trên cơm dưới cá”, năm nay thê thảm như vầy: (trích từ báo Tuổi trẻ).
Mùa nước nổi: xưa và nay
TTCT – Hằng năm, khoảng mồng 5 tháng 5 âm lịch, nước sông Cửu Long đang trong trở nên đục dần, người ta gọi là nước quay, nghĩa là bắt đầu mùa nước. Từ thời điểm đó, nước sông dâng lên dần, từ vài phân tới vài tấc nước mỗi ngày.
Khi nước lên tới đỉnh điểm gọi là nước phân đồng vào khoảng rằm tháng 9. Sau đó nước rút xuống từ từ tới cuối tháng 10 âm lịch là ruộng đồng khô ráo như cũ.
Thời gian nước ngập trắng đồng chừng ba bốn tháng tùy năm.
Ngày xưa…
Ngày xưa, trong mùa nước nổi người ta sạ lúa mùa. Nước lên tới đâu lúa vượt tới đó, trổ bông kết hạt trên mực nước sâu 2-3m. Khi nước rút hết thì lúa cũng chín, gặt lúa là xong mùa, khỏi làm cỏ bón phân chăm sóc gì hết. Dân miền Tây có tiếng “làm chơi ăn thiệt” là vì vậy.
Thời gian nước nổi là lúc đất nghỉ ngơi. Sau khi nước rút, ruộng đồng trở nên “tươi mới”, cỏ dại và sâu bệnh đều chết vì bị ngâm nước. Nước rút đi để lại một lớp phù sa màu mỡ, vì vậy đất luôn tốt và không bao giờ bị cằn cỗi.
Nhưng từ 15-20 năm nay nông dân vùng nước nổi không còn làm lúa mùa nữa mà chuyển sang làm lúa hai vụ. Để tăng sản lượng lúa hơn nữa, người ta đắp đê bao ngăn nước để làm lúa vụ 3 ngay trong mùa nước nổi. Bên ngoài đê nước cứ “nổi”, bên trong đê vẫn sạ lúa và sinh hoạt bình thường như trong mùa kiệt. Rất nhiều nông dân không muốn có đê bao vì chưa chắc có lợi hơn.
Làm lúa vụ 3 lời ít hơn hai vụ lúa kia, nếu giá cả bấp bênh có khi còn lỗ vốn. Thêm nữa, khi đắp đê thì trong vùng bao đê sẽ mất đi nguồn cá, đất đai mất nguồn phù sa quý giá. Cỏ dại, sâu bệnh lưu cữu trên đồng làm tăng thêm chi phí cho các vụ lúa sau. Nhưng vì đó là chủ trương của Nhà nước nên dù muốn dù không cũng phải làm theo.
Kể từ năm 2000 đến nay, ngày càng có nhiều cánh đồng có đê bao ở vùng nước nổi. Ngay cả những vùng đất thấp, rốn lũ như xã Ô Long Vĩ, Châu Phú, An Giang cũng đắp đê bao sản xuất vụ 3 cho “bằng chị bằng em”.
Trước đây, khi không có đê bao thì trước mùa nước ai cũng chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ chờ nước nổi. Ví dụ nuôi heo thì phải làm chuồng cao hơn đỉnh lũ, nếu chuồng thấp sẽ bỏ trống chuồng chờ qua mùa nước. Nuôi cá thì chuẩn bị sẵn cọc, lưới để quây hầm bảo vệ cá.
Từ khi có đê bao, người ta ỷ lại vào khả năng ngăn nước của đê nên không chuẩn bị, không đề phòng gì cả. Nhất là từ sau năm 2000, mười năm nước nổi thấp, và năm 2010 thì mực nước đặc biệt thấp, khiến người dân và chính quyền trong những vùng có đê bao càng lơ là hơn trong việc đề phòng tình huống xấu.
Người dân Đồng Tháp vất vả bảo vệ đê bao chống lũ - Ảnh: Quang Vinh
Cần tính toán lại
Có lẽ khi đắp đê bao người ta không để ý rằng không phải đê cao hơn đỉnh lũ lịch sử thì sẽ an toàn, mà vấn đề là cứ thêm một mét nước dâng cao thì mỗi mét vuông thân đê sẽ chịu thêm một tấn áp lực. Tuyến đê chịu được mực nước một mét không có nghĩa chịu được mực nước hai mét, ba mét (dù đê có cao bốn mét đi nữa). Khi đê bị đe dọa do mực nước lên cao, suốt tuyến đê đều yếu như nhau thì không biết phải cứu chỗ nào.
Năm nay mực nước cao gần bằng lũ lịch sử năm 2000, đê bao bể hàng loạt cho thấy các tuyến đê không được dự trù để đối phó với mức nước cao. Nông dân bị thiệt hại rất nhiều, không chỉ thiệt hại vụ lúa thu đông mà thôi. Có hầm cá sắp thu hoạch bị nước cuốn trôi toàn bộ. Có nhiều chuồng trại phải bán hết cả heo lớn heo nhỏ. Thương lái tha hồ dìm giá khi mua heo “chạy lũ”.
Nông dân vốn đã nghèo, bao đê để làm lúa, chăn nuôi trong mùa nước không khá hơn được bao nhiêu nhưng khi bị bể đê là mất sạch vốn liếng không biết bao giờ mới hồi phục nổi. Sau trận bể đê năm nay, hi vọng cả nông dân lẫn chính quyền và các ngành chức năng liên quan sẽ có nhận định sáng suốt hơn về vấn đề đắp đê bao ở vùng nước nổi. Từ đó sẽ có các giải pháp đúng đắn để giải quyết vấn đề, không để sai lầm lặp lại. Mà với sai lầm nào thì nông dân cũng là người gánh chịu hậu quả nhiều nhất.
HỒ THỊ PHƯƠNG TRINH (An Giang)

Vâng, “chỉ có giáo dục, y tế, môi trường là kém đi thôi!”. Mùa nước lụt, bể đê bao năm nay, lại nhớ lời bạn phương xa với một tiếng thở dài ngao ngán.

Những “con đỏ” nước mình sẽ còn bị “vùi dưới hầm tai vạ” với những dự án ngạo ngược “thay trời làm mưa, thay mưa làm trời” cho đến bao giờ?




Bình Luận

Thời Sự

Chuyên đề

 
http://danlambaovn.blogspot.com/search?max-results=50
Copyright © 2014 Dân Làm Báo