Ngô Nhân Dụng (Người Việt) - Sau này, lịch sử chắc sẽ ghi nhận có một phong trào phục hưng tinh thần của dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ 21. Trong mấy năm nay, số người làm mạng (bloggers) tăng lên rất nhanh. Tạ Phong Tần, Nguyễn Văn Hải đã bị tù vì dùng blog đánh thức đồng bào trước mối họa Bắc thuộc có thể tái diễn.
Cụ già tuổi 90 như nhạc sĩ Tô Hải cũng cặm cụi học kỹ thuật mới, chủ trì một diễn đàn cho đám con cháu và bạn bè vào uống chén trà xuông và thảo luận. Người ta góp ý kiến về tương lai, về nhân phẩm, về tự do dân chủ, về các cuộc biểu tình và cả về đám tang Phạm Duy.
Những cuộc tập họp trên mạng sôi nổi không khác gì những cuộc biểu tình! Và chắc chắn đông đúc hơn. Nhờ thế mà người dân cảm thấy hết sợ cường quyền! Hết sợ, không còn thấy điều gì cấm kỵ mà không dám nói. Nhiều người đã nói thẳng: Phải bỏ điều số 4 trong hiến pháp, tức là bãi bỏ độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng Sản! Ðảng Cộng Sản lúng túng đến nỗi phải cho một “cậu bé” ra múa may lên giọng quả quyết: “Ðảng... đủ tín nhiệm, đủ trí tuệ, bản lĩnh, niềm tin... để lãnh đạo toàn dân ta tiếp tục tiến bước theo con đường đã chọn đưa dân tộc lên đài vinh quang, đưa đất nước ta sánh vai với các cường quốc...” Nghe nói cứ y như thật! Nếu toàn dân ta cứ tiếp tục tiến bước theo con đường của Trọng Lú và Ðồng chí Ếch thêm dăm năm nữa thì không biết sẽ còn bao nhiêu vụ PMU hay Vinashin?
Lại quả quyết: “Không một thế lực nào, một đảng phái nào làm thay được vai trò lịch sử của đảng ta.” Nhưng nhiều người Việt đang tự động làm thay “vai trò lịch sử của đảng ta” rồi. Nói mãi rồi, thế nào cũng tới lúc phải hành động, kẻo chính mình soi gương cũng mắc cỡ! Mấy chục nhà trí thức ở Sài Gòn đã “thay đảng ta” tự đứng ra tổ chức lễ tưởng niệm những tử sĩ bị “quân nhà Hán” tàn sát trong cuộc chiến năm 1979, trước đám công an hằm hè đe dọa. Một cuộc chiến tranh thảm khốc như vậy mà đến ngày kỷ niệm cả bộ máy nhà nước lại cấm không cho ai được tưởng nhớ. Thế thì người dân tự ý làm lấy. Ðảng và nhà nước đã chịu thua. Các nông dân mất đất, mất ruộng có thể theo gương mà hành động. Người dân đã hết sợ.
Có gì đang thay đổi trong nước Việt Nam? Thay đổi quan trọng nhất là trong cái đầu. Mà cái đầu người dân quả đang thay đổi. Người ta dám nói, dám làm. Nhờ có những nhà trí thức can đảm. Nhờ có những bloggers và những nông dân đi biểu tình. Người Việt đang phát động một phong trào phục hưng tinh thần: Hết sợ!
Ðây là một điềm đáng mừng. Bởi vì rỗng trong cái đầu của cả guồng máy cai trị đất nước đang hoàn toàn trống rỗng. Họ vẫn bô bô hét to những khẩu hiệu cũ kỹ, nhưng trong bụng hết tin từ lâu rồi. Ðầu trống tuếch, cho nên hai tay lo vơ vét cho lẹ. Cái đầu đảng Cộng Sản là một hố thẳm, không còn chủ nghĩa, lý thuyết nào nữa. Chỉ thấy quyền và tiền! Nhưng một dân tộc thì không thể sống như vậy được. Một dân tộc còn tồn tại, không bị tiêu diệt, là nhờ cái đầu còn hoạt động. Giáo Sư Nguyễn Quốc Trị, khi nghiên cứu về sự phát triển của “các nước thứ ba” thời 1970, 80, đã nhận xét rằng kinh tế phát triển mạnh nhất ở những nước biết phục hồi văn hóa. Văn hóa đi trước, kinh tế theo sau. Nam Hàn, Ðài Loan, Singapore là những thí dụ thấy rõ. Khi toàn dân chia sẻ những niềm tin, khi họ biết có thể sống thuận thảo với nhau trong một hệ thống giá trị chung, có thể cùng tiến với nhau về một tương lai chung, trong những luật chơi công bằng, dân chủ, thì kinh tế có triển vọng cất cánh. Trước đây một thế kỷ Phan Châu Trinh đã thấy như vậy. Cho nên Phong trào Duy Tân nêu châm ngôn “Phấn dân khí, khai dân trí” (văn hóa) trước khi nói đến “hậu dân sinh,” tức là kinh tế.
Trong lịch sử, những cuộc cách mạng dân tộc thường diễn ra sau những phong trào phục hoạt tinh thần. Dân Ðức có Goethe, có Shiller, Kant trước khi gây phong trào thống nhất. Dân Pháp làm cách mạng sau thời đại Rousseau, Voltaire. Dân Phần Lan bị đế quốc Thụy Ðiển cai trị bảy thế kỷ, đã có lúc sắp bị đồng hóa hết, vì những người có học chỉ còn nói tiếng Thụy Ðiển, quên hẳn tiếng nước mình. Ðến thế kỷ 18 bỗng dưng các nhà trí thức ở đô thị khám phá ra một kho tàng: Nông dân Phần Lan vẫn giữ được tiếng nói! Mà thứ tiếng người Phần Lan nói thuộc một họ ngôn ngữ hoàn toàn khác họ Ấn-Âu của các nước chung quanh (lại có họ hàng với tiếng Hungary, một ốc đảo ngôn ngữ khác). Các nhà trí thức Phần Lan đã gây nên một phong trào “Về mới Mẹ Cha” (tên một bài hát của Nguyễn Ðức Quang). Họ đi học lại tiếng mẹ, đúng ra là tiếng của bà cố, bà tổ, vì nhiều bà mẹ cũng chỉ nói tiếng Thụy Ðiển! Họ bắt đầu hát: “Tôi yêu tiếng nước tôi” theo Sibelius!
Trong cố gắng phục hồi hồn nước, người Phần Lan cũng đi tìm lại những chuyện cổ tích, các bài phong dao, ca dao phổ biến trong dân gian, vẫn được nông dân giữ gìn trong hàng ngàn năm. Họ soạn một tuyển tập, giống như Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp (thế kỷ 15), Việt Ðiện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên (thế kỷ 14) ở nước ta. Dân Việt bây giờ còn biết đến những chuyện cổ tích đời Hồng Bàng, chuyện những anh hùng như Lý Phục Man, Triệu Việt Vương, Phùng Hưng là nhờ các cuốn sách này!
Làm sao những câu chuyện như sự tích Thần Núi Tản Viên, Thần Sông Tô Lịch, chuyện Trầu Cau, An Tiêm, Chử Ðồng Tử có thể được lưu giữ và truyền bá bằng cách kể chuyện suốt hai ngàn năm, để sau đó được Lý Tế Xuyên và Trần Thế Pháp ghi lại?
Có những quan đô hộ người Ðường đã giúp một tay. Hai “Ðường Sơn Ðại Huynh” nổi bật trong đám này là Triệu Xương và Tăng Cổn. Hai ông làm tiết độ sứ Giao Châu trong thế kỷ thứ tám từng sống nhiều năm ở nước ta. Cả hai đã tò mò đi nghe người Việt kể chuyện cổ tích cho nhau nghe, và họ thích thú chép lại; trong những sách tên là Phủ Chí và Giao Châu Ký.
Nhưng có những lý do nào khiến các viên quan đô hộ cất công đi tìm hiểu các chuyện thần thoại, cổ tích của người Việt Nam như vậy? Chắc chắn phải có một phong trào phục hoạt văn hóa ở đất Giao Châu trước đó, và đang dâng lên sôi nổi trước mắt hai quan đô hộ này. Người Việt không những chỉ kể chuyện mà còn cúng tế, làm lễ, rước kiệu các vị thần linh và các anh hùng dân tộc đã “hóa thần” để bảo hộ con cháu. “Ðảng và nhà nước” lúc đó cũng không ngăn cấm được các cuộc lễ này, vì người dân chỉ làm theo phong tục đã có từ ngàn năm!
Khi chứng kiến không khí chẩy hội của người Việt trong ngày tưởng niệm Trưng Vương, khi thấy hai làng người Việt cùng tế một thành hoàng Lý Phục Man, (một tướng giỏi của Lý Nam Ðế chết vì nước trước đó ba trăm năm) thì các ông Triệu Xương và Tăng Cổn phải đích thân đi tìm hiểu coi mảnh đất thuộc An Nam Ðô Hộ Phủ này có gì linh thiêng, huyền bí mà muôn người như một, đến ngày là cùng tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ như vậy. Nếu Triệu Xương và Tăng Cổn sống ở thế kỷ 21 này thì chắc họ cũng không ngăn cấm người Việt tưởng niệm các tử sĩ ngày 17 Tháng Hai, hay ngày 19 Tháng Giêng. Có khi họ còn đi nghiên cứu tiểu sử Ngụy Văn Thà để khi về nước viết “Hoàng Sa Ký”.
Việt Ðiện U Linh Tập chép một bài thơ của Tăng Cổn khen ngợi Cao Biền, một tiết độ sứ tiền nhiệm của ông ta. Tăng Cồn, sống ở Giao Châu vài chục năm, mở đầu bài thơ thế này:
Ðất Việt núi sông xưa
Nhà Ðường nhân vật mới
Người cao chí khí cao
Ðộng tĩnh Long thần tới
(Lê Hữu Mục, trong bản dịch Việt Ðiện U Linh Tập)
Nhiều độc giả người Việt đã đọc bài thơ này, nhưng một sử gia người Mỹ đọc và khám phá mấy ý kiến độc đáo. Sử gia Keith Taylor, Ðại Học Cornell, trong cuốn “Nước Việt Nam ra đời” (The Birth of Vietnam) nhận xét về hai câu đầu trong bài thơ này; ông thấy ý tưởng chính là so sánh cảnh vô thường chính trị với lẽ bất biến trong văn hóa. Ông viết: “Hai câu thơ đầu ngụ ý là, trong khi các triều đại (ở Trung Quốc) lên xuống thì các tập tục văn hóa của một dân tộc - bám rễ sâu trong mảnh đất họ sống và trở thành kiên cố nhờ lưu truyền qua bao thế hệ - vẫn là những nét bất biến trong lịch sử.”
Tăng Cổn không dùng các tên gọi do người Hán đặt ra như An Nam, Giao Châu hay Giao Chỉ. Ông gọi tên là Ðất Việt; hai chữ Ðất Việt (một lãnh thổ) đối chọi với hai chữ Nhà Ðường (một triều đại), ở vị trí ngang hàng với nhau. Tăng Cổn lại nói đến núi sông đất Việt trước, còn triều nhà Ðường nói sau. Ông công nhận có một Ðất Việt từ lâu đời, triều đại nhà Ðường nhà Hán đều đến sau cả. Một người làm thơ nổi tiếng như Tăng Cổn thường chọn chữ, đặt câu rất kỹ lưỡng. Hai câu thơ trên cho thấy ông tỏ lòng kính trọng đối với văn hóa và lịch sử miền đất Việt Nam.
Tại sao các tiết độ sứ nhà Ðường lại tôn kính tổ tiên chúng ta như vậy? Chắc chắn họ đã trông thấy trước mắt một phong trào phục hưng văn hóa đang diễn ra ở nước ta. Họ bỏ công tìm hiểu và ghi chép những sự tích của người Việt trong nửa thế kỷ, sau khi Tăng Cổn bỏ chức về nước để tiếp tục làm thơ, viết văn, đất Giao Châu đã nổi lên một phong trào giành độc lập, kết thúc với chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Ðằng.
Cho nên chúng ta vui mừng chứng kiến một phong trào phục hưng tinh thần của người Việt Nam trong mấy năm qua. Giới trí thức đã phát động. Những bạn trẻ như Việt Khang, Huỳnh Thục Vi, đã đứng dậy. Người Việt sẵn sàng đốt đuốc tiến tới, nối tiếp ngọn lửa của tổ tiên đã thắp sáng từ thời Bắc thuộc. Ðất Việt núi sông xưa, vẫn còn đó. Các chế độ tham ác sẽ chấm dứt. Nhớ đến tổ tiên, sẽ vững lòng tin tưởng vào tương lai.