Thục Quyên (Danlambao) - “Những nỗi đau dường như không thể nguôi ngoai và lửa giận vẫn ngút ngàn trong lòng người dân Việt khi xưa phải bỏ quê hương ra đi, dù nay đã thành công vẻ vang trên đất khách. Đứng trước những nỗi đau với muôn ngàn khía cạnh, nỗi giận với triệu cách bộc lộ, ai có quyền bảo một người khác hãy quên đi và tha thứ, dù thế sự có đổi thay chăng nữa?”
“Mai tôi chết Cờ Vàng xin đừng phủ”
Xin kính cẩn nghiêng mình,
10 tháng 3, 11 tháng 3, 12 tháng 3....
Cộng đồng mạng VN hải ngoại đang nhắc tới những đau thương chết chóc của những ngày này năm 75 khi Ban Mê Thuột thất thủ, và từ giờ cho tới 30/04 chắc chắn những bài viết về nỗi uất ức khắc khoải của đại đa số gia đình thuộc VNCH khi xưa cũng sẽ tràn ngập mạng.
Viết, để nhắc lại những hốt hoảng tuyệt vọng khi chính Sài Gòn thất thủ, để nhắc lại những vùi dập chết chóc trên con đường vượt biên cho những người bỏ nước ra đi, đi lần đầu hay đã từng rứt ruột bỏ nơi chôn nhau cắt rốn từ 1954 vào Nam, để nhắc lại những nhục nhã điêu tàn cho những người ở lại. Và những chia rẽ, phản bội, xâu xé, hà hiếp, trắng trợn....
Khi giấy mực vẫn còn thống thiết nức nở, những nỗi đau vẫn còn tiếp tục chảy máu, thì chẳng có người nào đối diện những nỗi đau đó được quyền hay dám láo xược cả gan nhắc tới Tha thứ và Hòa giải, dù rằng đó là những điểm chính trong mọi tôn giáo và nhất là trong truyền thống dựng nước của dân tộc Việt.
Như một loại trụ sinh, bình thường là một món thuốc quý báu để cứu sự Sống, những chữ Tha thứ và Hòa Giải đối với người Việt trong đại đa số trường hợp đã trở thành một chất gây tình trạng sốc phản vệ (anaphylactic shock). Phản ứng này mãnh liệt tới nỗi không còn có một người tu sĩ VN nào dám giảng tới góc nhìn đạo đức, cũng chẳng có người bác sĩ phân tâm học VN nào dám nhắc đến khía cạnh trị bệnh của nó.
Thật là một sự xúc động mạnh khi đọc những dòng chữ của Lê Diễn Đức (1)
Tôi tin có nhiều người giống tôi. Rằng: nếu một kẻ nào đó đã cướp đoạt tài sản của tôi, giết hại người trong gia đình tôi, đẩy tôi vào sự khốn cùng, phải đối diện hiểm nguy để đi tìm kế mưu sinh ở xứ khác, thì tôi sẽ thù hận kẻ đó suốt đời, và khi có cơ hội tôi sẽ trả thù.
Đó là một sự thành thật xuất phát từ con tim của người viết. Nhiều người đã không dám thẳng thắn thổ lộ như vậy mà cứ phải tìm những hình thức vòng vo để diễn tả. Cũng như nhiều người không đủ sáng suốt để nhận định đây không phải là một vấn đề có thể bàn cãi trên bình diện đạo đức hay cả chiến lược. Câu hỏi không phải là có nên tha thứ hòa giải, mà câu hỏi là có khả năng tha thứ hòa giải hay không? Tha thứ hòa giải chẳng phải là một điều có thể mua hay học hay muốn mà làm được.
Nó đang chỉ là một áng mây lãng đãng ở một nơi bên ngoài những bức tường của một cái nhà tù định mệnh kiên cố từ tháng Tư 75. Những chữ “Tha thứ hòa giải” không phải là món thuốc có thể rịn vào để cầm máu, mà nhắc tới lại như mũi dao rạch vào vết thương sâu thẳm chưa hề kéo da non. Và máu lại túa ra.
Tờ BBC bản Việt ngữ ngày thứ sáu, 15 tháng 3, 2013 đưa tin về Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain, người mới gần đây có dịp tiếp xúc giới bất đồng chính kiến tại VN, vừa có bài viết trên tờ Wall Street Journal nhận định Việt Nam vẫn chưa nỗ lực trong lĩnh vực nhân quyền và pháp quyền, và kêu gọi Việt Nam nên có những bước đi cải cách về hướng dân chủ. Với tựa đề “Cựu tù nhân chiến tranh nói về Việt Nam, 40 năm sau” bài viết bắt đầu bằng hồi ức của ông về ngày cuối cùng ở Việt Nam, 14/3/1973, khi ông được trả tự do về Mỹ sau sáu năm bị cầm tù tại Hỏa lò Hà Nội. TNS Mc Cain tuy vậy vẫn bày tỏ hy vọng rằng “Hai nước chúng ta đã có một quá khứ khó khăn và đau lòng. Nhưng đã không tự trói mình vào quá khứ đó và đang đi tiếp trên con đường từ hòa giải đến tình hữu nghị thực sự, điều mà sẽ là một trong những sự ngạc nhiên lớn nhất và hài lòng nhất trong cuộc đời tôi”. Đồng thời ông hứa sẽ là người bạn trung thành của Việt Nam trước các thách thức.
Trong khi đó tờ BBC News Magazine (bản tiếng Mỹ) ngày 22/03/2013 lại có bài dài về cựu đại sứ Mỹ mà cũng là cựu tù nhân chiến tranh Douglas Pete Peterson, cũng liên quan nhiều đến Việt Nam mà BBC Việt ngữ không mảy may nhắc tới.
Pete Peterson cũng từng bị cầm tù sáu năm tại miền Bắc VN và được trả tự do ngày 4/3/1973, trước Mc Cain mười ngày, và năm 1997 ông là người được tổng thống Bill Clinton bổ nhiệm làm vị đại sứ Mỹ đầu tiên tại Việt Nam, sau 20 năm không liên hệ ngoại giao giữa hai nước. Đại sứ Peterson khi đến nhậm chức tại Hà Nội đã phát biểu:
“Tôi muốn chữa lành vết thương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Đó là một lịch sử bi thảm mà hai dân tộc đã chia sẻ Không ai có thể thay đổi những gì đã xảy ra, nhưng có rất nhiều điều tuyệt vời mà tất cả chúng ta có thể làm cho tương lai. Và đó là lý do tại sao tôi trở lại Việt Nam.”
Mãn nhiệm sau 4 năm, cựu đại sứ Peterson đã cùng với người vơ ̣Úc gốc Việt Nam thành lập tổ chức TASC chuyên cứu trợ trẻ em quốc tế và ngày càng mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2006, cựu ĐS Peterson đã tâm sự:
“Tôi chỉ muốn đi bộ trên các đường phố để gặp gỡ, trò chuyện với những người dân mà tôi chưa có cơ hội tiếp xúc trong những lần trở lại Việt Nam trước“.
Trong bài báo mới đây, ký giả William Kremer đã tường thuật về những gặp gỡ định mạng giữa Peterson và Việt Nam kể từ quyết định của ông không từ chối tham dự cuộc chiến tại VN. Nhắc lại thân phận người tù binh Mỹ, ĐS Peterson mô tả quyết tâm của họ ở nhà tù Hỏa Lò “nhận chịu mọi phương cách tra tấn, được nghĩ ra để gây thương tật vĩnh viễn hoặc tử vong hoặc gần sắp tới mức độ đó”. Nhắc tới những vết sẹo gây ra bởi những tảng đá người dân Việt đã ném vào ông đêm ông rớt máy bay, ĐS Peterson bình thản nói “Phải nhìn một cách công bằng: đó là một phản ứng tự nhiên. Họ đã chụp cơ hội hiếm có sau khi bị bỏ bom trong nhiều năm”
Cả hai người cựu tù binh Mỹ Mac Cain và Peterson đã đem lại một tia ấm hy vọng là con người không cần phải chối bỏ hay quên dĩ vãng, mà vẫn có phương cách để trả dĩ vãng thương đau về hẳn cho dĩ vãng, dù mỗi người bộc lộ một cách khác nhau. Mc Cain nhấn mạnh vào khía cạnh chính trị, và Peterson vào tình cảm con người. Hành động của họ và nhất là câu nói cuả Peterson, “Cuộc sống của tôi đã được ơn trên bảo hộ để hoàn thành một điều gì đó có tính cách tích cực.” (My life was preserved to do something constructive) là bằng chứng sự thành công của nền tự ̣do dân chủ của Hoa Kỳ đã tạo được những con người có phong thái “lớn hơn sự khổ đau, cao hơn lòng thù hận của chính mình” .
Việc BBC tiếng Mỹ và BBC tiếng Việt đã không cùng đăng bài về hai nhân vật này phải chăng để tránh đụng chạm vào một vấn đề nhạy cảm? Từ khi Mỹ - Việt bình thường hóa, quan hệ giữa những đại diện của Mỹ ở Việt Nam với cộng đồng người Mỹ gốc Việt đã không dễ dàng. ĐS Peterson chưa bao giờ đến Quận Cam, nơi có cộng đồng Việt Nam đông dân nhất nước Mỹ. ĐS Marine chỉ một lần tới thăm một đại học của California. Mãi tới năm 2007 ĐS Michalak mới là đại sứ Mỹ đầu tiên đến thăm Quận Cam trong khi ĐS đương nhiệm David Shear sau khi gặp một số đông khách từ cộng đồng người Việt tại Mỹ ở bang Virginia vào tháng 3 năm ngoái đã vội có cải chính đây không phải là buổi gặp gỡ “chính thức”, và bản tin trên trang web của đài RFA Tiếng Việt đã bị gỡ xuống. Và dù đã tiếp hàng trăm đại diện của cộng đồng Mỹ gốc Việt tại Tòa Bạch Ốc, bên hành pháp Hoa Kỳ sẽ vẫn xúc tiến các mối quan hệ với Việt Nam, kể cả tăng cường trao đổi về an ninh vùng và quân sự theo chiến lược đã định.
38 năm đã qua từ khi Sài Gòn thất thủ.
Những nỗi đau dường như không thể nguôi ngoai và lửa giận vẫn ngút ngàn trong lòng người dân Việt khi xưa phải bỏ quê hương ra đi, dù nay đã thành công vẻ vang trên đất khách. Đứng trước những nỗi đau với muôn ngàn Khía cạnh, nỗi giận với triệu cách bộc lộ, ai có quyền bảo một người khác hãy quên đi và tha thứ, dù thế sự có đổi thay chăng nữa?
Và cũng chẳng ai có khả năng nghe, khi vết thương vẫn nhức nhối làm mủ độc.
Do đó Việt Nam chẳng hề bao giờ thật sự có hòa bình, dân tộc Việt vẫn tiếp tục xuất huyết vì nội chiến trong tâm. Vết thương cương mủ đang đưa dân tộc dần vào tình trạng nhiễm trùng huyết toàn diện (septicemia),vào cơn hấp hối.
Nếu không chữa kịp căn nhà VN đang bốc cháy mà chỉ chú tâm đuổi bắt kẻ đốt nhà, e rằng nhà sẽ không còn. Cũng không thể ngồi trông đợi hay đòi hỏi, dạy bảo người khác phải làm gì mà đã đến lúc chính chúng ta mỗi người phải tùy khả năng mà quyết tâm hành động. Đó là sự quyết định của mỗi người cho chính mình.
Bổn phận thiêng liêng nhất của mỗi người Việt hôm nay phải chăng là sự tự quyết định thoát khỏi ngục tù dĩ vãng và chấp nhận gánh chịu một phần trách nhiệm về sự sống còn của dân tộc ?
Một dân tộc Việt tự do dân chủ mới là chiến thắng thực sự, và là chiến thắng cuối cùng.
________________________________