Lê Dủ Chân (DanLamBao) - “Lịch sử dân tộc Việt Nam có trên 22 thế kỷ bang giao với Tàu. Trong 2200 năm đó dân tộc Việt Nam đã nhận được ơn nghĩa gì của Tàu ngoài máu đổ thành sông, xương trắng núi đồng và 1000 năm làm nô lệ! Thế mà ngày hôm nay trước âm mưu xâm lược trắng trợn và những hành động ngang ngược phá sạch, giết sạch, chiếm sạch của tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh, đảng cộng sản Việt Nam vẫn một lòng một dạ “đời đời nhớ ơn Trung Quốc”.
*
Trong giấc mộng bá chủ thế giới của những người lãnh đạo Trung Quốc, nếu họ xem Liên Xô và Mỹ là những đối tượng chủ yếu cần phải chiến thắng thì Việt Nam là nước đầu tiên họ cần phải thu phục. Từ Việt Nam họ sẽ có Đông Dương, kiểm soát đông nam châu Á, kềm kẹp các nước Nhật Bản, Ấn Độ làm chủ châu Á sau đó tranh hùng với Mỹ và Liên Sô để bá chủ thế giới.
Tại Hội nghị ban chấp hành trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1956, Mao Trạch Đông đã nói:
“Chúng ta phải trở thành quốc gia hàng đầu về phát triển văn hóa, khoa học kỹ thuật và công nghiệp... Không thể chấp nhận rằng sau một vài chục năm, chúng ta vẫn chưa trở thành cường quốc số một trên thế giới.”
Sau đó, tháng 9 năm 1959, tại Hội nghị của quân ủy trung ương, Mao Trạch Đông lại nói:
“Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta”
Đến tháng 8 năm 1965 trong cuộc họp của Bộ Chính Trị ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc, Mao Trạch Đông khẳng định:
“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore... Một vùng như đông nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản... xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy...”
Và trong văn kiện chỉ đạo cho gián điệp Trung Quốc hoạt động tại Việt Nam năm 1973 có đoạn ghi rõ rằng:
“... Nước ta và nhân dân Việt Nam có mối hằn thù dân tộc hàng nghìn năm nay. Chúng ta không được coi họ là đồng chí chân chính của mình, đem tất cả vốn liếng của ta trao cho họ. Ngược lại, chúng ta phải tìm mọi cách làm cho nước họ ở trong tình trạng không mạnh, không yếu mới có thể buộc họ ở trong tình trạng hiện nay. Về bề ngoài chúng ta đối xử với họ như đồng chí của mình, nhưng trên tinh thần ta phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta...” (Trích lời khai của Lê Xuân Thành sinh ngày 20-3-1949 tại tỉnh Quảng Đông Trung Quốc, gián điệp Trung Quốc bị bắt ngày 30-3-1973 tại xã Ngư Thủy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình).
Tư tưởng chủ đạo này khẳng định tất cả mọi chi viện giúp đỡ của Trung Quốc cho đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam xuyên suốt 70 năm qua hoàn toàn không vô tư, xuất phát từ tình láng giềng hữu nghị, tình đồng chí anh em, mà đó một công cụ để phục vụ cho giấc mộng bá chủ thế giới của tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh.
Trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Pháp, cũng như trong 20 năm nội chiến huynh đệ tương tàn, Trung Quốc là nước viện trợ vũ khí, trang bị quân sự nhiều nhất cho đảng cộng sản Việt Nam. Sự trợ giúp này này tuyệt đối không phải vì nền độc lập, thống nhất lãnh thổ, tự do no ấm cho tổ quốc và nhân dân Việt Nam mà chính vì những lý do và âm mưu sâu độc sau:
- Sự an nguy của chính bản thân Trung Quốc: Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có chung biên giới về phía nam, nếu Việt Nam và Đông Dương sau khi được độc lập theo thể chế tự do dân chủ thì phía nam của Trung Quốc sẽ bị thế giới tự do uy hiếp sát nách. Đây cũng là lý do khiến Trung Quốc tham chiến tại Triều Tiên để giúp Bắc Hàn. Bắc Việt Nam và Bắc Hàn là những lãnh thổ trái độn cần thiết phải có đối với nền an ninh của Trung Quốc trong hoàn cảnh lúc đó.
- Tạo thanh thế trên chính trường quốc tế: Như chúng ta đã biết từ năm 1950 về trước, sau hơn 23 năm nội chiến Quốc-Cọng (1927-1950), 8 năm bị Nhật Bản xâm lược (1937-1945) Trung Quốc dưới mắt của cộng đồng các quốc gia trên thế giới chỉ là một nước chậm tiến, nghèo, lạc hậu. Đó là thời mà ngay trên đất nước của họ có những tấm bản đề “cấm chó và người Trung Quốc.”
Nếu không có chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Triều Tiên, Trung Quốc làm sao có tiếng nói quyết định tại hội nghị Bàn Môn Điếm ở Triều Tiên (1953), hội nghị Genève ở Thụy Sĩ (1954), hội nghị Paris ở Pháp (1973), gia nhập vào Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (1971) và vị thế ngày hôm nay.
Những diễn biến lịch sử này đã xác định Trung Quốc, thông qua bọn tay sai, chính là kẻ đã lợi dụng xương máu của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia và Triều Tiên mặc cả với Pháp, Mỹ và Liên Xô để trục lợi về mình.
- Kềm kẹp Việt Nam trong quỷ đạo của mình: Xuyên suốt 2200 năm lịch sử ban giao hai nước Việt-Trung, chưa có thời đại nào nước Việt Nam bị kềm chế, kiểm soát chặt chẽ bởi nhà cầm quyền Trung Quốc như dưới thời đại do Hồ Chí Minh và đảng cộng sản nắm quyền.
Vào thời phong kiến mặc dầu Việt Nam là một nước nhỏ và yếu nhưng vua nước Việt chưa bao giờ sang Bắc Kinh để bệ kiến các hoàng đế Trung Hoa.
Trong khi đó chỉ có 4 năm từ năm 1950 đến năm 1954, Hồ Chí Minh chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ cộng Hòa đã có 4 lần sang Bắc Kinh để hội kiến với lãnh tụ nước Cọng Hòa Nhân Dân Trung Hoa vào các năm 1950, 1951, 1952, 1954. Kế tục sự nghiệp ô nhục này, tập đoàn lãnh đạo đảng, nhà nước cộng sản Việt Nam từ Lê Duẫn đến Nguyễn Phú Trọng đều phải qua Trung Quốc nhận chỉ thị và cam kết lòng trung thành với Bắc Kinh ít nhất một lần trong nhiệm kỳ của mình.
Trong chiến tranh chống Pháp (1940 -1954) và trong chiến tranh xâm lược miền nam Việt Nam (1955 -1975) dưới sự kềm kẹp của Bắc Kinh nhà cầm quyền cộng sản Bắc Việt hầu như đã hoàn toàn mất chủ động trong ban giao quốc tế cũng như trong chính sách nội trị của mình. Từ bộ áo đại cán mặt trên người đến cơ cấu tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, từ những phong trào chính trị như rèn cán chỉnh quân, cải cách ruộng đất, đến việc ký kết các hiệp định, hiệp thương có ảnh hưởng đến quốc gia dân tộc như hội nghị Genève ở Thụy Sĩ (1954), hội Nghị Paris ở Pháp (1973)... nhất nhất đều được thực hiện dưới sự chỉ đạo của Trung Quốc.
- Xâm lược lược Việt Nam: Sau khi Liên Sô và các nước trong phe Xã Hội Chủ Nghĩa tại Đông Âu sụp đổ, nhất là sau khi chiến tranh biên giới Việt Trung kết thúc, thái độ phục tùng của tập đoàn lãnh đạo Việt Nam đối với Bắc Kinh càng ngày càng sâu đậm. Đây cũng là thời kỳ để Bắc Kinh thu về cả vốn lẫn lời những gì họ đã bỏ ra trong chiến tranh Việt Nam.
Với công hàm Phạm Văn Đồng (1958) Trung Quốc có được biển đông và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Với hội nghị Thành Đô (1990) và phương châm 16 chữ vàng, tinh thần 4 tốt (1999) Trung Quốc đã khai thông con đường nam tiến không tốn một giọt nước bọt.
Với hiệp ước Biên Giới Việt Hoa (1999), hiệp định Phân Định Vịnh Bắc Bộ (2000) Trung Quốc đã có được cả ngàn cây số trên biên giới phía Nam với những di tích và danh lam thắng cảnh lịch sử không hao một giọt mồ hôi.
Với dự án khai thác bauxite Tây Nguyên (2001), hợp đồng cho thuê rừng đầu nguồn của 10 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, Trung Quốc đã nghiễm nhiên trở thành chủ nhân ông của những cao điểm chiến lược để khống chế Việt Nam và Đông Dương.
Và gần đây nhất với hành động đàn áp, bỏ tù người dân biểu tình chống xâm lược Trung Quốc, với bản tuyên bố chung 8 điểm “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung Quốc - Việt Nam” ký kết ngày 21/06/2013 giữa Tập Cận Bình tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc và Trương Tấn Sang chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, ban lãnh đạo Trung Quốc chắc hẳn biết rằng giấc mộng xâm chiếm Việt Nam của Mao Trạnh Đông không còn bao lâu nữa sẽ thành sự thật.
Để đền đáp “công ơn” hiểm độc trên của Trung Quốc, Phùng Quang Thanh đại tướng ủy viên BCT / TW đảng, bộ trưởng bộ quốc phòng thay mặt đảng, quân đội Nhân Dân Việt Nam khẳng định tại buổi họp mặt kỷ niệm ngày thành lập Giải Phóng Quân Trung Quốc tại Bộ Quốc Phòng Việt Nam ngày 28/7/2012 như sau:
“... Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam...”
Thay mặt cho nhà nước Cọng Hòa Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Nguyễn Thiện Nhân phó Thủ Tướng chính phủ, trong lần chủ trì “Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc – Hội Hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc” tại Hà Nội ngày 10/07/2012 đã chỉ thị:
“Hội hữu nghị Việt Nam -Trung Quốc sẽ tổ chức các hoạt động tri ân các cá nhân, tổ chức và địa phương Trung Quốc, xuyên suốt trong 5 năm, sau đại hội này…”
Tiêu biểu cho tư tưởng chiến lược của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, Trần Đăng Thanh đại tá phó giáo sư - tiến sĩ, nhà giáo ưu tú, thuộc học viện Chính trị Quốc Gia Bộ Quốc Phòng trong một buổi giảng bài tại Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây ngày 19/12/2012 đã phân tích:
“... Trong 4 năm kháng chiến chống Pháp, 21 năm chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc đã từng nhường cơm xẻ áo dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ khẩu súng, từ đôi dép để chúng ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng Mỹ. Như vậy ta không quên họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa, đấy là đối với Trung Quốc hai điều không được quên...”
Không riêng gì đảng, nhà nước cộng sản Việt Nam mang ơn Trung Quốc, trong quần chúng nhân dân đây đó cũng đã có một số không nhỏ bị đầu độc bởi tư tưởng “ơn nghĩa Bắc Triều” như những phát biểu tiêu biểu sau:
“... Tấm gương khiêm tốn lễ độ và yêu thương của Bác Hồ với các đồng chí Trung Quốc phải được truyền rộng khắp đất nước ta để toàn dân học tập và tuân thủ. Tấm gương này sẽ xóa tan mọi hiềm khích giữa hai bên để Việt Nam chóng trở về với Trung Quốc và thực sự thành một chi bộ tốt của Đệ Tam Quốc Tế, bên cạnh người anh cả Trung Quốc. Nhà thơ Chế Lan Viên đã tỏ rõ chân lý của trí tuệ sáng ngời khi ông giáng bút:
“Bác Mao không ở đâu xa
Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao”.
... Chúng ta sẽ cùng nhau hãnh diện là người Trung Quốc, chia xẻ nền văn hóa Trung Quốc và sát cánh tranh đấu cho chế độ vô sản chuyên chính. Tương lai của Việt Nam là tương lai của Trung Quốc, hay ngược lại... Tóm lại, Việt Nam thực sự là Trung Quốc về mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục... ” Trích bài viết “Bác Hồ và Trung Quốc” của Nguyễn Tất Trung một cán bộ hưu trí đang sống tại Sài Gòn. (xoathantuong2.tripod.com/ntt_bacho.htm -). Hoặc:
“... oán hận với Tàu, tôi vẫn nhớ nhưng cũng có lúc này lúc khác tôi cũng không quên những sự giúp đỡ của Tàu và Liên Xô trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, tôi cũng không thể phủ nhận điều đó, cũng không nên qua cầu rút ván...” Trích “comment” của “đại ca xứ Quảng” trên Dân Làm Báo ngày 12/06/2013.
Lịch sử dân tộc Việt Nam có trên 22 thế kỷ ban giao với Tàu. Trong 2200 năm đó dân tộc Việt Nam đã nhận được ơn nghĩa gì của Tàu ngoài máu đổ thành sông, xương trắng núi đồng và 1000 năm làm nô lệ!. Thế mà ngày hôm nay trước âm mưu xâm lược trắng trợn và những hành động ngang ngược phá sạch, giết sạch, chiếm sạch của tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh, đảng cộng sản Việt Nam vẫn một lòng một dạ “đời đời nhớ ơn Trung Quốc”.
Trước họa xâm lăng của kẻ thù phương bắc, tổ quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu khi những kẻ nhận giặc làm cha, mang ơn kẻ thù còn làm chủ đất nước, còn ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.