Đi tìm sự thật về con người muôn mặt Hồ Chí Minh (phần 7) - Dân Làm Báo

Đi tìm sự thật về con người muôn mặt Hồ Chí Minh (phần 7)


Cuộc chiến xâm lăng miền Nam 1954-1975

Trước đây hơn nửa thế kỷ, trong tập Chính Đề Việt Nam (Tùng Phong - Sài Gòn - Việt Nam 1963) trang 212, ông Ngô Đình Nhu đã cảnh báo: Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì việc Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian rõ viễn kiến của một người yêu dân yêu nước.

Hồ Chí Minh từng ở Tàu, từng ở Nga. Hồ Chí Minh không phải không biết tham vọng của người Tàu. Hồ Chí Minh không phải không thấy cuộc sống của người dân Nga dưới chế độ Stalin và chủ nghĩa Mac-Lenin tệ hại như thế nào. Tuy nhiên, vì tham vọng ngu xuẩn và bản tính lưu manh tàn ác nên đã lợi dụng một chủ nghĩa ngoại lai không tưởng lừa bịp dân tộc, đưa cả nước vào cùng khốn và tàn sát lẫn nhau, lấy giang sơn gấm vóc của tổ tiên làm nơi thử bom đạn của ngoại nhân, đem xương máu của đồng bào cả nước ra làm mồi cho súng đạn, gây chết chóc cho hàng triệu sinh linh và oan nghiệt đói khổ cho cho hàng chục triệu gia đình, đẩy dân tộc vào thảm họa nghi kỵ thù hận chia rẽ, 

Nếu Hồ Chí Minh thực tâm yêu nước và tin rằng Xã Hội Chủ Nghĩa là lý tưởng tốt đẹp thì sau hiệp định Geneve 1954, khi quân Pháp rút khỏi Miền Nam và khi quân Mỹ chưa đến, tại sao Hồ Chí Minh lại vội vã cho thiết lập đường mòn Trường Sơn 759 và lập đường biển với những chiếc tàu không số đưa người và vũ khí xâm lăng Miền Nam. Nếu Hồ Chí Minh thực sự tin tưởng Xã Hội Chủ Nghĩa là tốt đẹp là sẽ đưa đất nước đến chỗ phú cường tại sao Hồ Chí Minh không lo xây dựng Miền Bắc cho thật phồn vinh để người dân được ấm no, hạnh phúc, sau đó mở cửa cho hai miền Nam Bắc tự do đi lại và mời cả thế giới cùng đến chiêm ngưỡng. Không cần phải thông minh chúng ta cũng thấy là người dân sẽ lựa chọn bên tốt đẹp ấm no và hạnh phúc và chối bỏ bên bất công áp bức, và như vậy không cần tốn một giọt máu Hồ Chí Minh cũng thống nhất được đất nước. 

Nên biết, ở vào thời điểm 1954, ngoài những người đã từng sống trong vùng Hồ Chí Minh kiểm soát hoặc những người đã nếm mùi và biết thế nào là cộng sản thì tuyệt đại đa số người dân không ai biết cộng sản là gì. Thêm nữa đa số lại còn rất say mê huyền thoại chiến thắng Điện Biên nên những người này có khuynh hướng ngã theo Hồ Chí Minh. Nhưng Hồ Chí Minh không làm những điều này vì Hồ Chí Minh có con đường của Hồ Chí Minh.

Hội nghị đình chiến Geneve 1954 quy định trong vòng 1 năm sau ngày ký kết hiệp định người dân hai miền có quyền chọn lựa nơi cư trú và sau 3 năm hai miền Bắc và Nam sẽ có một cuộc Tổng Tuyển Cử để thống nhất đất nước. Dân số cả nước lúc đó vào khoảng 30 triệu. Miền Bắc chừng 17 triệu và Miền Nam chừng 13 triệu. Vì đã từng sống hoặc được nghe kể lại những chuyện đấu tố của cộng sản nên gần một triệu người dân Miền Bắc đã ào ạt bỏ nhà bỏ cửa chạy vào Miền Nam tạo thành cuộc di cư lớn nhất lịch sử. Trong khi đó số người Miền Nam tập kết ra sống với Miền Bắc chỉ gồm cán bộ bộ đội cùng thân nhân, tổng số chưa tới bảy chục ngàn người. Tuy nhiên cuộc Tổng Tuyển Cử cũng đã không thành bởi vì Miền Bắc quyết định xâm chiếm Miền Nam bằng vũ lực còn Miền Nam thì Pháp mới trao quyền, tiếp đó là vụ truất phế Bảo Đại và các vụ rối loạn giáo phái do thực dân Pháp giật dây nên tình hình chưa được ổn định. 

Trở lại Miền Bắc, với quyết tâm đánh chiếm Miền Nam nên vào tháng 5-1959, sau khi ổn định vụ Cải Cách Ruộng Đất, đập nát cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu-Nghệ An, giết và đầy ải hơn 6000 người (Nguồn: Quynh Luu Uprising, Wikipedia), dẹp tan sự bất bình của trí thức qua phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và nắm chặt được quyền kiểm soát cai trị, Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị Cộng Đảng Hà Nội bắt đầu tiến hành mưu đồ xâm lăng Miền Nam.

Hồ Chí Minh dùng những con đường mòn hiểm hóc chạy dọc theo rặng Trường Sơn làm đường chuyển vận binh sĩ và vũ khí. Thoạt đầu con đường có tên là đường mòn Hồ Chí Minh, đường mòn Trường Sơn, hay đường 559, do thượng tá Vũ Bẩm chỉ huy. Năm 1965 nâng lên thành cấp sư đoàn. Năm 1970 thành cấp Binh Đoàn dưới quyền chỉ huy của Đồng Sĩ Nguyên. 

Ngoài ra vào tháng 7-1959 Hồ Chí Minh cũng cho thiết lập một đoàn tiếp tế trên đường biển. Năm 1963 đoàn 759 được chỉ định trực thuộc binh chủng Hải Quân. Năm 1964 đổi tên thành Trung Đoàn 125, hay Đoàn 125. Với ngụy trang là Tập Đoàn Đánh Cá Sông Gianh gồm những tàu đánh cá không mang số chở vũ khí đạn dược cho chiến trường Miền Nam. Tháng 2-1965 Quân lực Miền Nam đã phát hiện và đánh chìm một chiếc tàu trọng tải hơn 100 tấn của đoàn 759 tại Vũng Rô, tỉnh Phú Yên, tịch thu vô số đạn dược quân trang quân dụng (Nguồn: Nguyễn Kỳ Phong. Tự Điển Chiến Tranh Việt Nam)

Việc nhân số Miền Bắc nhiều hơn Miền Nam không quan trọng. Điều quan trọng là tại Miền Bắc bắt buộc mỗi người dân phải có tên trong Sổ Hộ Khẩu và Sổ Lương Thực. Muốn thay đổi nơi cư trú người dân phải được sự chấp thuận của chính quyền địa phương của cả nơi đi và nơi đến. Nếu một trong hai nơi không chấp thuận thì phải vĩnh viễn ở lại chỗ cũ, không khác gì bị chỉ định cư trú, bị quản chế, hay bị biệt giam.

Lại nữa, thanh niên đến tuổi nghĩa vụ không còn sự lựa chọn nào khác vì nếu trốn tránh thì cả gia đình sẽ bị liên lụy. Không những cả nhà bị cắt lương thực, cha mẹ vợ con còn bị bắt đi trình diện ngày đêm cho đến khi nào người trốn tránh ra đầu thú. Vì thế, chẳng thà đi bộ đội mà một năm có hai bộ quần áo mặc, ngày ngày có hai bữa cơm ăn và gia đình được yên ổn, còn hơn là ở nhà chưa mở mắt đã nghe loa đài xoáy vào lỗ tai, mờ sáng nghe tiếng kẻng là phải xếp hàng theo đội ngũ ra nông trường hay vào công trường làm việc, trưa đến chờ chực như con chó của Pavlov mong được miếng ăn và chiều về chưa kịp lùa hết chén cơm đã phải lên hội trường ngồi họp hành kiểm thảo, thi đua, bình bầu chiến sĩ xuất sắc cho đến nửa khuya.

Còn một chuyện khác nữa. Nhiều người lấy làm lạ tại sao trong đám tù binh Miền Bắc bị Miền Nam bắt có nhiều em chỉ mới 15 hay 16 tuổi. Có người giải thích là bị cưỡng chế ép buộc. Có người cho là bị lừa phỉnh dụ dỗ. Có người nói vì tinh thần các em cao độ. Sự thật hoàn toàn trái ngược. Chính các em này đã xung phong tình nguyện đi bộ đội để có hai bữa cơm ăn và để cho gia đình bớt một gánh nặng.

Kẻ giàu có đầy đủ mới sợ chết còn những kẻ “trên răng dưới Bác Hồ” thì việc đổi mạng sống lấy miếng ăn vẫn là chuyện thường ngày. Quân ăn cướp bao giờ cũng liều mạng hơn người có tài sản.

Trong khi đó cuộc sống tại Miền Nam thanh bình no ấm đầy đủ nên ngoài những người đến tuổi phải đi làm bổn phận công dân thì chỉ có một số người tự nguyện gia nhập quân đội. Lý do: Đời sống quân ngũ gò bó kỷ luật và nhất là không được tự do sau khi làm việc. Sống đời dân sự muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm. Thứ bảy chủ nhật, sáng dẫn vợ con đi chơi, tối kéo nhau đi xem cải lương, đi nhà hàng, hay đi phòng trà ca nhạc nhảy nhót. Hai bên khác nhau một trời một vực 

Lại nữa, tại Miền Nam còn một số không ít người hoặc vì thật thà ngây thơ, chưa sống, chưa biết Cộng Sản là gì nên bị tuyên truyền, đầu độc, hoặc vì bất mãn cá nhân nên thấy cỏ đồng xa xanh hơn cỏ đồng gần, biết cộng sản hoạt động ngay bên cạnh đã không nói ra lại còn bao che. Một số khác đã yểm trợ hoặc làm nội tuyến cho Bắc Việt, hoặc chứa chấp nuôi dưỡng Việt Cộng ngay trong nhà. Đây là trường hợp học giả Nguyễn Hiến Lê như chính ông đã thú nhận trong Hồi Ký tập III cũng như một số trí thức sinh viên tả khuynh thời đó như Trịnh Công Sơn, Huỳnh Tấn Mẫm... Chuyện no cơm ấm cật cũng là cái lợi bất cập hại của Miền Nam. 

Ngày 20-12-1960 Hồ Chí Minh cho thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đưa Nguyễn Hữu Thọ ra làm Chủ Tịch, cùng với nhóm Phùng Văn Cung, Võ Chí Công, Nguyễn Văn Hiếu, Trần Bạch Đằng... Ngày 2-1-1963 mở trận Ấp Bắc. Năm 1968, đêm giao thừa tết Mậu Thân Hồ Chí Minh đã cho đọc bốn câu thơ chúc tết trên đài phát thanh Hà Nội như sau:

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.

Thơ không ra thơ, thẫn không ra thẫn. Đó là mật lệnh của Hồ cho cuộc tắm máu mà chúng gọi là cuộc Tổng Nổi Dậy tết Mậu Thân 1968:

Toàn thắng đâu không thấy bởi vì sau những ngày đầu chiếm được ưu thế bất ngờ, nói chung cuộc Tổng Nổi Dậy kể như hoàn toàn thất bại. Sở dĩ Huế là thành phố duy nhất bị Cộng Quân tràn ngập và cưỡng chiếm vì có bọn thân Cộng trong Hội Đồng Cứu Quốc của Lê Khắc Quyến và những kẻ ôm chân Trí Quang, Ấn Quang, Nguyễn Đắc Xuân, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Đóa, Nguyễn Thị Đoan Trinh và anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường... làm nội tuyến. Ngày 20-4-1968, Việt Cộng cho ra đời thêm một hình nộm khác gọi là Liên Minh Các Lực Lượng Dân tộc, Dân Chủ Và Hòa Bình Miền Nam Việt Nam, đưa Trịnh Đình Thảo làm Chủ Tịch gồm các tên Thích Đôn Hậu, Lâm Văn Tết, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Lữ Phương,… Tất nhiên đây chỉ là một trò hề bởi nhóm Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ chỉ được dựng lên làm bình phong chứ đâu có quyền hành gì. Tại Huế Việt Cộng đã thành lập được Hội Đồng Cách Mạng do Lê Văn Hảo làm Chủ Tịch. 

Để biết rõ sự thật về cái gọi là Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên-Huế này chúng ta hãy nghe Tiến Sỹ Lê Văn Hảo, nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên-Huế, trả lời ký giả Nguyễn An trong cuộc phỏng vấn của Đài Á Châu Tự Do (Radio Free Asia, RFA) ngày 02-02-2008 về vai trò của ông trong vụ Tết Mậu Thân như sau:

Lê Văn Hảo: Trong tất cả khi nổ ra Mậu Thân tức là trong 26 ngày đêm Cộng Sản chiếm thành phố Huế thì tôi ngồi trên núi để nghe đài phát thanh suốt ngày, tất cả những gì xảy ra dưới Huế tôi chỉ biết qua đài phát thanh của Hà Nội và đài phát thanh giải phóng.

Nguyễn An: Tức là ông không biết những cái gì thêm ngoài những điều mà đài phát thanh nói?

Tiến sỹ Lê Văn Hảo: Tôi không thể biết được bởi vì tôi không có mặt ở Huế mà nó đâu có dám để cho tôi về Huế vì anh biết khi nó đề nghị một chức vụ như vậy là cả một sự áp đặt. Nó nói là anh phải nhận, nếu anh không nhận thì anh cũng không còn đường về thì cả một sự đe dọa. Anh có thấy tính chất đe dọa đàng sau lời đề nghị đó không?

Nguyễn An: Đây là một chi tiết rất là mới bởi vì hồi xưa cho đến bây giờ người ta cứ tưởng rằng là những đoàn quân họ chiếm đóng Huế hai mươi mấy ngày đó là Ông về trực tiếp điều hành công việc ở đó, thì hóa ra hoàn toàn không có chuyện này!

Tiến sỹ Lê Văn Hảo: Than ôi! Đó không phải là sự thật lịch sử mà tôi chỉ là một con tin đã bị ở trong thế kẹt phải nhận lấy chức vụ để bảo tồn sự sống còn để mà mong có ngày về với vợ con thôi! Chớ tôi nói thật với anh vai trò của tôi trong Tết Mậu Thân là vai trò hoàn toàn thụ động, tôi chỉ ngồi trên núi để nghe đài, nghe tin tức.

Nguyễn An: Thưa Ông, như vậy tức là Mậu Thân sau khi họ tấn công Huế thì sau đó họ đưa ông về?

Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Không! Tôi không có về lúc đó, lúc đấy là chỉ có mấy anh Cộng Sản về đánh nhau ở dưới thành phố thôi, chớ còn tôi họ đâu có dám đưa tôi về! Họ biết rằng khi tôi nhận thì tôi cũng miễn cưỡng mà nếu đưa tôi về thì tôi chắc cũng chuồn luôn thì họ đâu có dám đưa tôi về…

Như vậy, chính người trong cuộc đã xác nhận cái gọi là Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên-Huế cũng như cái Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình được nặn ra trước và sau cuộc Tổng Công kích 1968 chỉ là một trò lường gạt. Tóm lại trận chiến Mậu Thân 1968 là một thất bại lớn của Cộng Sản Hà Nội. Chúng thất bại vì tin là quần chúng sẽ nổi dậy cướp chính quyền và đứng về phía họ. Thực tế là đồng bào thấy Cộng quân tới đâu thì bồng bế nhau chạy thục mạng về vùng Việt Nam Cộng Hòa. 

Cũng do phát động cuộc tổng nổi dậy cho nên hầu hết những thành phần nằm vùng đều phải xuất hiện đứng ra vận động thúc dục quần chúng. Khi cuộc chiến tàn, những thành phần này hoặc bị bắt, hoặc bị lộ diện nên phải tháo chạy vào khu, vì vậy mà cơ sở cộng sản dày công gây dựng trong nhiều năm đã bị tan nát trong mấy ngày. Sau đó, quân lực Miền Nam phản công, chiếm lại Huế, quét sạch cộng sản tại những nơi chúng xuất hiện. Bị tổn thất quá nặng, nhất là những cơ sở nằm vùng bí mật bị lộ diện và bị quan thầy Nga Sô Trung Cộng sỉ vả nên Hồ Chí Minh uất ức phát bệnh và chết vào ngày 2-9-1969 cho dù bao nhiêu năm ép buộc người dân hò hét Hồ Chí Minh muôn năm. 

Điều trớ trêu là ngày chết của Hồ Chí Minh lại trùng với ngày Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập tại quảng trường Ba Đình Hà Nội vào năm 1945 nên Cộng Đảng Hà Nội ra công bố Hồ Chí Minh chết vào ngày 3-9-1969. Tuy nhiên về sau không thể dấu diếm được nữa nên Hà Nội đành phải xác nhận Hồ Chí Minh đã chết vào ngày 3-9-1969. Thế là xong cuộc đời một tên ác tặc.

Những ngày cuối đời của Hồ Chí Minh:

Ở trong chăn mới biết chăn có rận. Có thể vì những việc làm đốn mạt bỉ ổi cùng những thủ đoạn tàn ác thường ngày, hay có thể bọn Lê Duẩn Lê Đức Thọ đã biết được “con người thật” của Hồ Chí Minh nên lúc cuối đời Hồ Chí Minh bị bọn đàn em coi không ra gì. 

Trong tập sách “Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội”, nhà xuất bản Văn Nghệ, 1995, trang 328, con hùm xám Chợ Đệm Nguyễn Văn Trấn, nguyên Chính Ủy Bộ Tư Lệnh khu 9 và Bí Thư Khu Ủy, Đại Biểu Đại Hội Đảng lần thứ hai, Giáo Sư trường Nguyễn Ái Quốc và trường Đại Học Nhân Dân tại Hà Nội, Vụ Phó Ban Tuyên Huấn Trung Ương, thuật lại lời nói của Bùi Công Trừng về Hồ Chí Minh vào những ngày cuối đời:

...Mày coi có tội nghiệp không. Đồng chí Hồ Chí Minh muôn vàn kính mến của chung ta bận bộ đồ lụa gụ, chủ trì hội nghị mà day mặt ra sân. Khi chướng quá quay vô đưa tay để nói thì thằng Thọ lễ phép Bắc Hà: “Bác hãy để cho người anh em ta nói đã mà”. Tao đếm lão Hồ đưa tay mấy lần, lần nào thằng Thọ cũng kịp ngăn...

Bùi công Trừng nói với tôi như vậy. 

Thọ đây là Lê Đức Thọ, Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng. Một tay em của Lê Duẩn mà dám đối xử với Hồ Chí Minh không ra gì, chứng tỏ uy tín của Hồ Chí Minh không là cái gì gì cả. 

Tuy nhiên cuộc chiến xâm lăng Miền Nam vẫn tiếp diễn bởi lũ Lê Duẫn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ... với sự tiếp sức tận lực của Cộng Sản Quốc Tế, đặc biệt là Trung Cộng, dẫn đến biến cố 30-4-1975.

Quốc tế cộng sản tham chiến tại chiến trường Việt Nam

Việt Nam Cộng Hòa Miền Nam mất về tay Việt Cộng Miền Bắc không phải vì tinh thần chiến đấu thua sút mà vì sự lừa bịp, tuyên truyền, dối trá và bị đâm sau lưng. Trong khi cả thế giới đều biết Hoa Kỳ cùng một số nước đồng minh đem quân đến Việt Nam nhưng việc Cộng Sản Hà Nội được tiếp sức và tham chiến của cả khối Cộng Sản Quốc Tế thì không ai biết, hoặc có biết nhưng lại nhắm mắt như mù, chủ yếu là bọn ký giả thiên tả ngu dốt thiển cận cùng với một nhóm trí thức hoặc lũ nghệ sĩ kênh kiệu ngây ngô khờ dại như Bertrand Russell, Tom Hayden, Jane Fonda, Peter Arnett... Lũ ngợm này bị Cộng Sản ve vản lợi dụng và bị bịt mắt nên trở thành đồng lỏa với Cộng Sản Quốc Tế đánh lừa dư luận thế giới, tạo chính nghĩa cho Cộng Sản Hà Nội, tạo bất mãn trong dân chúng Hoa Kỳ và nhân dân trong các nước thuộc thế giới tự do, tiếp tay cho Cộng Sản Hà Nội thôn tính Miền Nam. 

Nói một cách khác Miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản là vì thua trận tại Hoa Thịnh Đốn chứ không phải thua trận tại Sài Gòn, trong đó có phần đóng góp không nhỏ của những tên thân cộng và lũ trí thức thiển cận đui mù. 

Dưới đây là những bằng chứng sự tham chiến của Quốc Tế Cộng Sản trên chiến trường Việt Nam:

Bob Seals trong một bài đăng trên Military History hồi 2008 đã trích nhiều tài liệu các tác giả Trung Quốc có sách xuất bản ở Phương Tây như Địch Cường (Qiang Zhai) và Lý Tiểu Binh (Li Xiaobing). Nội dung bài viết cho thấy. "Đỉnh điểm của sự can dự từ phía Trung Quốc vào cuộc chiến Việt Nam là năm 1967, khi tổng số lực lượng phòng không lên tới 17 sư đoàn, với 150 nghìn quân. Tài liệu tối mật của CIA ghi nhận bảy đơn vị lớn của Quân Giải phóng Trung Quốc (PLA) tại Bắc Việt, gồm sư đoàn phòng không 67, và con số ước tính 25 đến 45 nghìn quân tác chiến.

Từ sau chiến dịch Xuân-Hè 1972 (Hoa Kỳ gọi là Easter Offensive, Việt Nam Cộng Hòa gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa) Bắc Kinh lại tăng cường viện trợ cho Hà Nội, khi lực lượng cộng sản miền Bắc thiệt hại nặng, mất tới 450 xe tăng và chừng 100 nghìn quân. Đợt tấn công này của Bắc Việt ở miền Nam bằng 20 sư đoàn, đông hơn số quân tướng Patton chỉ huy thời Thế chiến 2 tại châu Âu."

Quân Liên Xô bắn máy bay Mỹ

Ngày thứ hai, 31 tháng 12, 2012 đài BBC đã đưa ra một số tư liệu lịch sử nước ngoài về sự tham gia của Liên Xô và Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam, đặc biệt là trong các trận chiến phòng không, không quân trên miền Bắc chống lại Không lực Hoa Kỳ:

Tháng 2- 2008, hãng tin Nga (RIA Novosti) đưa tin một cựu phi công Liên Xô, ông Yury Trushvekin, nói chính ông là người đã bắn hạ phi cơ của ông John McCain trên bầu trời Hà Nội năm 1967 và hãng tin Nga cũng nói sự hiện diện của quân đội Liên Xô tại Bắc Việt Nam hồi đó “chưa bao giờ được công nhận chính thức” dù sau khi Liên Xô tan rã các nhóm “cựu chiến binh từ Việt Nam’ của Nga vẫn làm lễ kỷ niệm không chính thức.

Ông Nicolai Kolesnhik, một cựu chiến binh Nga ở Việt Nam, trả lời trang web của Nga, nói từ năm 1965, ông cùng các đơn vị Liên Xô tham gia phòng thủ Bắc Việt Nam bằng tên lửa chống lại không quân Hoa Kỳ. Ông Kolesnhik cũng nói về sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô rất lớn "khoảng hai triệu USD một ngày trong suốt tất cả những năm chiến tranh" trong đó vũ khí, khí tài chiếm số lượng lớn. "Hai nghìn xe tăng, bảy nghìn pháo và súng cối, hơn năm nghìn súng cao xạ phòng không, 158 tổ hợp tên lửa phòng không, hơn 700 máy bay, 120 máy bay trực thăng, hơn 100 tàu chiến.

Ông cũng cho biết: "Từ tháng 7/1965 đến cuối 1974 gần 6500 tướng lĩnh sĩ quan và hơn 4500 hạ sĩ quan binh lính của các lực lượng vũ trang Liên Xô tham gia tác chiến tại Việt Nam."

Trường hợp Bắc Hàn tham chiến tại Việt Nam thì phải đến năm 2000, nghĩa là 25 năm sau ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, lần đầu tiên Bắc Hàn và Việt Nam mới xác nhận rằng phi công Bắc Hàn đã tham chiến chống các cuộc tấn công không quân của Hoa Kỳ tại miền Bắc Việt Nam.

Tuy vậy, sự xác nhận đó không đi kèm theo việc công bố bằng chứng nào về sự hỗ trợ của quân đội Bắc Hàn. Năm 2007 báo Tuổi Trẻ, Sài Gòn, tiết lộ vào năm 2002, 14 phi công Bắc Hàn bị giết trong chiến tranh và được chôn ở tỉnh Bắc Giang - hài cốt của họ nay được đưa về lại Bắc Hàn.

Theo tài liệu này, ngày 21/9/1966, Bình Nhưỡng gửi một đơn vị không quân tình nguyện sang Việt Nam chiến đấu. Đơn vị này sẽ "tổ chức thành từng đại đội nằm trong đội hình trung đoàn không quân của ta, mặc quân phục Việt Nam, cùng sử dụng một sân bay". Theo văn bản cuộc họp, Võ Nguyên Giáp kết luận: "Bộ đội không quân Triều Tiên mang danh nghĩa là chuyên gia, nhưng thực chất là quân tình nguyện. Vì vậy, ta phải đoàn kết tôn trọng bạn" (Wikipedia)

Báo Tuổi Trẻ năm 2007 tiết lộ vào năm 2002, 14 phi công Bắc Hàn bị giết trong chiến tranh và được chôn ở tỉnh Bắc Giang - hài cốt của họ nay được đưa về lại Bắc Hàn. Trong lá thư gửi tờ báo để đính chính một số chi tiết, một viên tướng về hưu của Việt Nam cho hay 87 người lính Bắc Hàn đã phục vụ ở Việt Nam từ 1967 đến đầu 1969. 14 người được phong liệt sĩ và các chiến binh Bắc Hàn được nói đã bắn rơi 26 máy bay Mỹ.

Báo Tuổi Trẻ Hanoi đăng hình quân nhân Bắc Triều Tiên đến giúp Hanoi trong thời chiến tranh Việt Nam 

Mặt thật của Hồ Chí Minh

- Một kịch sĩ lưu manh quỷ quyệt:

Với bản chất xảo trá ranh mãnh lại được trui luyện tại lò Mật Vụ Cộng Sản Nga Sô nên Hồ Chí Minh trở thành muôn mặt. Bởi vậy muốn biết mặt thật Hồ Chí Minh không còn cách nào xác thực hơn là tìm kiếm những sự kiện liên quan đến cuộc đời của con người này. 

Nhìn lại tình trạng đất nước vào thời điểm 1945: Nạn đói hoành hành giết gần hai triệu trong tổng số hai mươi lăm triệu đồng bào. Dân tình cực khổ. Sự căm hận thực dân đế quốc sôi sục trong lòng mọi người nên khi nghe chuyện đi kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp là toàn dân ùn ùn hưởng ứng. 

- Tuy nhiên, đã có rất nhiều người từng đi kháng chiến cho đến khi biết được mặt thật của Hồ Chí Minh liền dứt khoát bỏ về thành ẩn thân với tâm trạng uất hận cay đắng. Tiêu biểu nhóm người này là cụ Trần Văn Hương, các ông Trần Chánh Thành, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam (Bộ Trưởng Ngoại Giao trong Chính Phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh), Vũ Hồng Khanh (Phó Chủ Tịch Quân Ủy Hội - Võ Nguyên Giáp làm Chủ Tịch), Trần Văn Văn (bị ám sát tại Saigon và cũng là thân phụ anh hùng Trần Văn Bá), Hoàng Văn Chí, Quách Tòng Đức, Đoàn Thêm, Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sỹ, Chu Tử, Lê Thương, Vũ Đức Diên, Văn Phụng, Y Vân, Ngọc Bích, Thanh Nam, Võ Phiến, Lê Trọng Nguyễn, Phan Lạc Phúc.... 

- Một số nghĩ rằng việc đánh thực dân Pháp là cần thiết, mọi chuyện trong nhà sẽ tính sau, để rồi trở tay không kịp như cụ Nguyễn Văn Tố, các ông Nguyễn Hữu Đang, và nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. 

- Một số lầm đường mắc bẩy sau muốn thoát ra nhưng bị canh chừng nghiêm nhặt chặt chẽ từng ly từng bước nên không tìm được lối thoát như Huỳnh Thúc Kháng, Phạm Huy Thông, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Văn Cao....

Nên nhớ, khi vừa cướp được chính quyền vào năm 1945, Hồ Chí Minh đã dùng thủ đoạn lấy lòng dân bằng cách mời một số nhân sĩ có uy tín trong nước tham gia Chính Phủ Liên Hiệp Lâm Thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

- Cụ Nguyễn Hải Thần, Việt Cách (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội) làm Phó Chủ Tịch Nước 

- Cựu Hoàng Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại) làm Cố Vấn

- Cụ Huỳnh Thúc Kháng làm Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ.

- Nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân Chính) làm Bộ Trưởng Bộ ngoại Giao.

Khi Hồ Chí Minh sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau năm 1946 cụ Huỳnh Thúc Kháng được cử làm Quyền Chủ Tịch nước Việt Nam. Ngoài ra cụ còn được giao cho chức vụ Chủ tịch Mặt Trận Liên Việt (viết tắt của Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam). 

Trong tác phẩm “Một Cơn Gió Bụi” sử gia Trần Trọng Kim ghi lại thì khi được hỏi về công việc trong thời gian này, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã nói: "Bây giờ việc gì cũng do địa phương tự trị cả, thành ra không có việc gì mấy, và khi có việc gì, thì họ làm sẵn xong cả rồi, tôi chỉ có vài chữ ký mà thôi". Rõ ràng là Cụ Huỳnh Thúc Kháng chỉ được ăn bánh vẽ.

Ngoài những trường hợp kể trên còn có một số bị tha hóa vì quyền lực và lợi lộc, biết sai lầm nhưng vẫn như bầy kên kên rúc rỉa xác người, sống thoải mái trên xương máu của đồng bào. Tiêu biểu nhóm này là Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh, Hoài Chân, Huy Cận, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Xuân Diệu....

Vào lúc cuối đời Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi đã viết những bài thơ sám hối. 

Chế Lan Viên với Bánh Vẽ:

...Chưa cần cầm lên nếm 
anh đã biết là bánh vẽ.
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp.
Chả là nếu anh từ chối,
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Ðêm vui....

Nguyễn Đình Thi rõ ràng hơn:

Tất cả người tôi còn nhiều bùn tanh
Mặt tôi nhuốm xanh, nhuốm đỏ
Tay tôi vương nhiều đồ bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc mình
Thôi! 
Xin tha cho mọi lỗi lầm
Quên cho những dối lừa khoác lác
Tôi biết tôi đã nhiều lần tàn ác
Và ngu dại còn nhiều lần hơn…

(Sổ Tay Thơ, tập 5) 

Riêng Nguyễn Tuân, sau này khi vào Sài Gòn đã tâm sự: “Tớ sống được là nhờ biết sợ”. Sợ là phải! Đối mặt với ác quỷ sát nhân thì ai mà không sợ nhưng đã mang danh kẻ sĩ tại sao lại không im lặng co rút lại như Văn Cao, Nguyên Hồng, Tử Phác.... Tệ hơn nữa, Nguyễn Tuân và bầy kên kên lại ngày đêm viết bài ca tụng đánh bóng chế độ, lường gạt người dân. 

Rõ ràng Nguyễn Tuân một lần nữa lại cố tình đánh lận con đen. Cho nên, nói sợ là không đúng. Phải nói là hèn, là khiếp nhược, là tán tận lương tâm... Với Nguyễn Tuân, sau bộ mặt cao ngạo kênh kiệu giả tạo là khúm núm khiếp nhược với Ngày đầy tuổi tôi cách mệnh xác định sự vững tin (?) vào “lập trường Cách Mạng" (?), và bài tự kiểm thảo "Nhìn rõ sai lầm" kế đó là “Nguyễn Tuân tự phê bình” in trên Văn nghệ tháng 5, năm 1958 để "nhận tội" 

Theo lời kể của Nguyễn Đình Thi hôm trước B52 mới bỏ bom ác liệt thì ngay hôm sau trên báo Nhân Dân đã có bài của Nguyễn Tuân viết về một đám cưới bên trận địa cao xạ. Với tập Hà nội ta đánh Mỹ giỏi in năm 1972, Nguyễn Tuân đã trở thành cán bộ văn hóa (hay văn nô?). Trường hợp Nguyễn Tuân đúng là tác phẩm gắn liền với cuộc đời: “Vang Bóng Một Thời... Lưu Manh

Đã có nhiều học giả Tây phương đã viết bài về khả năng đóng kịch với ý định lừa dối của tên lưu manh xảo quyệt tàn hại dân tộc Việt Nam này. 

"Gian dối là nền tảng trong sự nghiệp Hồ Chí Minh và đảng ông ta" (Blum 1982, 218). Hồ có khả năng hèn nhát (Brocheux 2007, 159); ông ta có tài cải trang và nói láo (sđd., 137). "Hồ Chí Minh là một tên lừa đảo xuất chúng, suốt đời giả bộ là một người hoàn toàn ngược lại con người thực sự của ông ta" (Nixon 1986, 32). Jean Lacouture, một học giả Pháp, phóng viên, sử gia, và tác giả nhiều sách tiểu sử về các lãnh tụ thế giới, viết Hồ Chí Minh là một nhà sản xuất phim kịch chuyên nghiệp. "Ông ta lúc nào cũng dàn dựng sân khấu cho chính ông ta, lúc nào cũng nhìn mọi tình trạng với mắt người sản xuất phim kịch." Lacouture kể một chuyện tiêu biểu cho tài đóng kịch của Hồ. Khi Hồ tới Pháp năm 1946, ông ta được mời tới tòa Đô chính. "Ban đầu ông ta từ chối mọi thức ăn thức uống, nhưng sau đó ông ta đổi ý, lựa một trái táo đẹp, bỏ vào túi và, trước tia nhìn kinh ngạc của Chủ tịch [Hội đồng Thành phố Paris, Henri Vergnolle], bước ra khỏi tòa nhà; kế tiếp ông ta bước vội xuống mấy bậc và, trước đám đông reo hò, đưa trái táo cho một bé gái. Đối với những người ái mộ Hồ, hành động đó phản ảnh bản chất hòa nhã lịch sự và lòng yêu thương trẻ em của ông ta. Tuy nhiên, đối với đa số, đó chỉ là một thủ thuật rẻ tiền để lấy lòng thiên hạ. 

- Độc ác tàn nhẫn:

Trong quyển “Death by Government”, tác giả Rudolph J. Rummel, giáo sư khoa chính trị học đại học Yale, sau nhiều năm tìm tòi đã lập bảng thống kê cho biết con số nạn nhân tại một số quốc gia dưới sự cai trị của các tên độc tài được xếp theo thứ tự như sau:

(1) Mao’s Regime 76,702,000 (1958-1962 là 35,236, 000; PRC từ 1928- 1987 là 76,702,000 người).

(2) Lenine, Staline (Liên Xô) 61,911.000 người.

(3) The Nazi Genocide State (Hitler 20, 946, 000 người).

(4) Quân phiệt Nhật 5,964.000 người.

(5) Khmer đỏ 2,035.000 người. (ponpot)

(6) Thổ Nhĩ Kỳ 1,883.000 người.

(7) Hồ Chí Minh, Cộng sản Việt Nam 1.670.000 người.

(8) Cộng sản Ba Lan 1.585.000 người.

(9) Cộng sản Nam Tư 1.072.000 người.

Trong một bài diễn văn tố cáo chế độ tù đày của thực dân Pháp đọc ngày 1-5-1960, Hồ Chí Minh đã công bố rằng 31 thành viên đương nhiệm của ban chấp hành trung ương của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã bị giam tổng cộng là 222 năm trong các nhà tù của thực dân Pháp. 

Để so sánh, trong buổi lễ khánh thành đài tưởng niệm nạn nhân cộng sản tại Washington ngày 13-6-2117 Ban Tổ Chức lễ đài đã cho biết: Theo tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu đã được phổ biến “According to the published academic studies in the United States and Europe…” thì số nạn nhân của các “trại tù cải tạo” do Hà Nội thiết lập còn cao gấp mấy trăm ngàn lần

...Có ít nhất 150 “trại tù cải tạo” sau khi Sàigòn sụp đổ. Hơn 1 triệu nạn nhân đã bị giam giữ không bị chính thức kết tội hay xét xử (without formal charge or trial) 165,000 nạn nhân chết tại các “trại tù cải tạo.”

Có những nạn nhân đã bị giam giữ tới 17 năm, và theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì đại đa số nạn nhân bị giam giữ từ 3 tới 10 năm, “…according to the U.S. Department of State, most term ranging from 3 to 10 years…” Nếu lấy con số trung bình là 3 năm tù cho mỗi người thì số năm tù của một triệu nạn nhân là 3 triệu năm...

Tóm lại Hồ Chí Minh là một tên dối dân hại nước. Lòng tham vọng và tâm địa thấp hèn đã biến Hồ Chí Minh thành tên đồ tể, tạo sự nghiệp cho mình trên chết chóc của hàng chục triệu người dân vô tội. Với chủ trương lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện, Hồ Chí Minh cùng băng đảng Cộng Sản đã gây ra vô vàn tội ác. Hồ Chí Minh kín đáo giết Hồ Tùng Mậu, giết Huỳnh Thúc Kháng, giết Nguyễn Văn Tố, giết Nguyễn Bình, giết Nguyễn Mạnh Tường, giết Trần Đức Thảo... rồi làm lễ truy tặng truy phong và cho đàn em mang vòng hoa tới phúng viếng. 

- Lợi dụng và lường gạt giai cấp công nông:

Hồ Chí Minh từng sống tại nước Nga nhiều năm nên không thể không biết đời sống người dân Nga Sô dưới chế độ độc tài đảng trị cùng khốn và cơ cực như thế nào. Hồ Chí Minh cũng không thể không biết những vụ thủ tiêu, thanh trừng, hoặc những trại tập trung giết oan hàng triệu người trong các trại tập trung ở Tây Bá Lợi Á. Vậy mà Hồ Chí Minh vẫn rêu rao đảng Cộng Sản đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân và đem chủ thuyết Mac- Lenin về Việt Nam

Thực ra Cộng sản và Hồ Chí Minh chỉ lợi dụng hai giai cấp này để làm bàn đạp thâu tóm quyền lực. Nhìn lại tất cả các nước từng theo chủ nghĩa Cộng Sản và ngay tại đất nước Việt Nam, ai ai cũng thấy hai giai cấp công nhân và nông dân đã bị bóc lột một cách thậm tệ và tàn nhẫn nhất. 

Ngoài việc hai giai cấp công nông được phong thánh bằng cái búa và cái liềm trên lá cờ máu thì ngày ngày phải làm việc trong các nông trường hay công trường tập thể và phải hoàn thành chỉ tiêu như những người máy. Làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm, làm thêm giờ nghỉ. Hết thi đua mừng kỷ niệm lại thi đua lập thành tích dâng Đảng dâng Bác. Trung bình một người mỗi ngày phải còng lưng làm việc 10 giờ mà mỗi tháng chỉ được 13 kí gạo, không đủ hai bữa cơm ăn. Vinh quang duy nhất của họ là chiếc bánh vẽ anh hùng lao động, anh hùng tiên tiến còn tất cả đặc quyền đặc lợi đều nằm trong tay bọn cán bộ đảng viên. 

Khi bức tường Bá Linh bị đập nát kéo theo sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng Sản trên toàn thế giới thì Cộng Sản Việt Nam phải đưa ra chủ trương đổi mới để sống còn. Nhờ vậy cuộc sống hai giới công nhân và nông dân mới hết cảnh phải ăn bo bo như trâu bò, hay cảnh phân phối tem phiếu lương thực mỗi năm vài kí thịt, vài thước vải. 

Mà đổi mới là gì? Là lập lại những gì của Miền Nam Việt Nam Cộng Hòa ngày trước ngoại trừ người dân được quyền hưởng tự do. 

“Hạ bộ” của Hồ Chí Minh là Nguyễn Tấn Dũng ký Nghị Định số 37/2006/CT/TTg ngày 29/11/2006 kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí với bất cứ hình thức nào trong khi điều 69/1992 Hiến Pháp Cộng Sản quy định công dân có quyền tự do báo chí thông tin lập hội biểu tình.

Ngày nay, tuy trong nước có hàng chục đài phát thanh, phát hình, hàng chục tờ báo và hàng trăm tạp chí khác nhau nhưng tất cả đều trực thuộc Ban Tuyên Huấn Đảng. Tổng Biên Tập tức Chủ Nhiệm hay Chủ Bút đều phải là cán bộ Đảng. Bài viết, bài nói phải đi theo lề phải, nghĩa là phải cúc cung ca tụng Đảng và phục vụ chế độ. Vì thế người dân bị bịt tai, khóa miệng vì không còn nguồn thông tin nào khác. Rất may nhờ thời đại tin học nên một số người có điều kiện và phương tiện đã lén lút truy cập được một số tin tức từ bên ngoài. Nhưng với Cộng Sản, đây là một tội phạm hình sự phá hoại chế độ. Nếu bắt được sẽ bị truy tố và bị tống giam vào trại tù cải tạo.

Cũng chính vì không cho người dân quyền tự do nên nảy sinh ra chế độ công an trị. Trong một nước nhỏ bé mà có gần một chục viên Đại Tướng, Thượng Tướng Công An. Con số Trung Tướng, Thiếu Tướng thì đếm không hết. Tổng số công an lên đến hàng triệu. Không có ngành nghề gì mà không có con mắt cú vọ của công an: Công an chìm, công an nổi, công an tổ, công an phường, công an khu phố, công an chính trị, công an văn hóa, công an tôn giáo... hoặc dưới dạng cán bộ hoặc dưới dạng dân thường len lỏi khắp chỗ khắp nơi để rình rập và kiểm soát người dân. 

Chỉ với một xã Quảng Vinh, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, một xã rất nghèo, có 2.000 hộ mà có tới… 500 “cán bộ”. Chia đồng đều thì cứ 4 gia đình lại có một cán bộ kiểm soát. Nguyên văn đoạn viết dưới đây trên báo Tiền Phong, cơ quan ngôn luận của thành đoàn thành phố HCM, đã để lộ ra sự thật: 

...Vì “cán bộ đông như châu chấu” nên người dân ở đây sống rất cơ cực. Không cơ cực sao được khi một củ khoai, hạt lúa cõng trên mình nó gần 20 loại thuế (phí)? Và để có khoản tiền khổng lồ nuôi đám “đầy tớ vĩ đại”, họ “bóp hầu, bóp họng” người dân bằng chính sách tận thu..... 

...Nông dân Quảng Vinh còn nghèo lắm, số hộ nghèo còn tới 30,6%. Trang trải cuộc sống hàng ngày đã khó huống hồ phải đóng góp để nuôi cán bộ. Nhưng không đóng không được, bởi tất cả các khoản đều được quy ra thóc, dân không tự nguyện thì cán bộ lấy lúa ngoài đồng. Đừng có hòng chạy thoát. Mà giả sử có chạy đợt này thì xã lại ghi vào sổ nợ rồi cho người đòi liên tục, đòi đến lúc nào thanh toán đủ mới thôi”...

Ông Nguyễn Sĩ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Cộng Sản Hà Nội đã xác nhận thực trạng trong bài “Lạm phát đầy tớ” với câu mở đầu: “Ít ở đâu trên thế giới, đầy tớ (cán bộ, quan chức) của nhân dân lại nhiều như ở ta!”. 

Cán bộ Cộng Sản nhiều như giòi bọ, rút gan rút ruột người dân, nên thực chất chỉ Cộng Sản chỉ là ký sinh trùng hại dân hại nước. Ngày nay ai cũng rõ băng đảng Cộng Sản là tụ điểm của bọn cướp ngày, lưu manh, bịp bợm, côn đồ, ăn bám, phá nát, làm hại. Trong khi người dân phải nai lưng làm việc thì cán bộ đảng viên đi họp đi hành. Khi chia điểm chia công thì đảng viên cán bộ luôn luôn có số điểm cao nhất mà không ai dám hé miệng. Đó là chưa kể những việc lộng quyền, cậy thế, hà hiếp, cưỡng đoạt rồi phủ bênh phủ huyện bênh huyện. Đảng viên cán bộ nào phạm tội có chứng cớ không thể chối cãi được thì chỉ bị kiểm điểm rồi thuyên chuyển đến chỗ khác, có khi còn nắm giữ chức vụ cao hơn.

Đố ai dẫn chứng được những tên Cộng Sản là những tên trực tiếp lao động sản xuất ra của cải góp phần xây dựng trong đời sống. Chúng chỉ biết làm lãnh đạo và làm cán bộ, nghĩa là chỉ biết nói dóc, lao động bằng miệng. Chúng chỉ biết phỉnh gạt, nói dối, lật lọng và phản bội. Chúng nói nhân dân làm chủ nhưng thực tế nhân dân là kẻ phải còng lưng làm việc. Chúng nói cán bộ đảng viên là đầy tớ nhân dân nhưng những tên đầy tớ này đè đầu cỡi cổ ông chủ ăn trên ngồi trốc chỉ tay năm ngón, bắt ông chủ làm việc và khai thác ông chủ đến tận xương tủy.

Tổng Bí Thư Cộng Đảng Nga Sô Boris Yeltzin cũng phải nhìn nhận: Cộng Sản phải hủy bỏ chứ không thể thay đổi. Năm 1991 ông ta đã giải tán đảng Cộng Sản, vứt cờ búa liềm, chuyển đổi đế quốc Nga Cộng thành nước Nga mới ngày nay. 

Sổ ghi các thứ thuế người dân phải đóng.
Những thứ thuế lạ đời độc ác ngay cả thời phong kiến thực dân đế quốc cũng không có.





Bình Luận

Thời Sự

Chuyên đề

 
http://danlambaovn.blogspot.com/search?max-results=50
Copyright © 2014 Dân Làm Báo