Trong buổi phỏng vấn ngày 25 tháng 6 năm 1946, Hồ Chí Minh đã trả lời đảng viên Xã hội Daniel Guérin về cái chết của ông Tạ Thu Thâu (bị thủ tiêu theo lệnh của Hồ) như sau: «Đó là một nhà ái quốc và chúng tôi thương khóc ông... Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã vạch đều sẽ bị đập tan tiêu diệt».
Con đường của Hồ Chí Minh và của đảng CSVN là con đường quyền lực độc tài, không có cộng tác, không có đối lập, không có nhân nhượng. Tất cả phải ở dưới tay đảng, phải làm công cụ cho đảng, phải lót đường cho đảng đến chiến thắng vinh quang, đến uy quyền tuyệt đối, đến thống trị muôn đời; dù đó là tổ quốc, dù đó là nhân dân, dù đó là tôn giáo, dù đó là pháp luật; dẫu phải thí sinh mạng dân thường và binh sĩ, dẫu phải phế tài năng nhân sĩ và trí thức, dẫu phải chà đạp quốc pháp và công pháp, dẫu phải hủy bỏ đạo đức và văn hóa, dẫu phải chịu căm ghét và khinh bỉ của mọi người, dẫu phải nhượng đất liền hải đảo cho quân xâm lược... Nghĩa là Cộng sản VN coi mọi chuyện như trò đùa và sẵn sàng đạp bỏ tất cả dưới chân, để giữ cho ngai vàng mình kiên vững.
Cả lịch sử dài của đảng từ năm 1930 đến nay đã chứng minh điều đó. Để thu tóm mọi đất đai vào tay mình và tiêu diệt mọi ảnh hưởng bên ngoài mình, đảng đã chà đạp sinh mạng của trên dưới nửa triệu đồng bào miền Bắc (trong đó đa phần là nông dân tài giỏi và nhân sĩ uy tín) qua cuộc Cải cách ruộng đất. Để thu tóm mọi nhân tâm vào tay mình và tiêu diệt mọi đầu óc mình không kiểm soát được, đảng đã tiến hành đấu tố nhóm Nhân văn Giai phẩm, qua đó chà đạp hàng ngàn tinh hoa trí tuệ và triệt hạ tinh thần bất khuất của sĩ phu Dân tộc. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và lần thứ hai, đảng đã sẵn sàng bán đứng hải đảo quan yếu của Tổ quốc để nhận viện trợ từ đại đồng chí phương Bắc, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, đã nướng quân một cách vô tội vạ theo chiến thuật biển người, đã thí hàng triệu sinh mạng binh sĩ và thường dân như kiểu đánh bạc không sợ tiền hết, đã phá hủy vô số làng mạc thị trấn qua chiến dịch «tiêu thổ kháng chiến» để đạt chiến thắng cho kỳ được, đã giết chết hoặc chôn sống hàng vạn thường dân vô tội và chà đạp truyền thống linh thiêng ngày Tết dân tộc để uy danh đảng vang lừng.
Năm 1975, cuộc chiến tranh xâm lược kết thúc, đảng lại hủy diệt nền kinh tế vững chắc và tiến bộ với bao doanh nhân tài giỏi và chịu khó của miền Nam qua chính sách «cải tạo công thương nghiệp», chỉ vì muốn bần cùng hóa nhân dân cho dễ cai trị; đảng lại phế bỏ vô số tài năng và thiện chí của hàng triệu quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa, chỉ vì lo sợ quyền lực bị sẻ chia hay sứt mẻ. Đến năm 1982, dẫu ký kết hai Công ước Liên hiệp quốc về Nhân quyền, đảng chỉ coi đó là trò che mắt quốc tế và sẵn sàng chà đạp nó không thương tiếc tại quốc nội (như sẽ thấy dưới đây). Bản Hiến pháp 1946 được coi là tiến bộ (nhờ lúc đó có các đảng phái quốc gia) đã bị đảng mau chóng thay thế bằng những bản Hiến pháp ngày càng củng cố ách độc tài của đảng (1959, 1980, 1992) và ngày càng dí mọi dân quyền và nhân quyền dưới chân đảng.
Việc chà đạp tất cả dưới chân đi song song với việc coi mọi sự là trò đùa. · Trò đùa trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, như tịch thu triệt để mọi ruộng đất của nhân dân và mọi tài nguyên của đất nước vào tay đảng như kẻ quản lý và sở hữu bất tài và tham lam mà vẫn tuyên bố đó là điều kiện cần thiết để «sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa», để nông dân no ấm sang giàu, hăng hái trồng trọt... Thực tế ra sao về số phận nông dân, tình trạng đất canh tác và hiệu quả nền kinh tế thì ai cũng thấy rõ. Dù nay đảng mỵ dân bằng cách tăng thời hạn thuê đất từ 20 lên 50 năm thì đó cũng chỉ là chuyện khôi hài, chẳng đi tới đâu. ·
Trò đùa trong giáo dục đào tạo, như chủ trương thực hiện «mơ ước tột bậc của bác Hồ» là «ai cũng được đi học», nhưng lại huấn luyện giáo viên hồng hơn chuyên, biên soạn sách giáo khoa kiểu độc quyền và đầy sai lạc, thu học phí cao ngất trời và phụ phí vô số kể khiến hàng trăm ngàn học sinh bỏ học hay sinh viên thi đậu không thể nhập học, khiến sinh viên ra trường phải đào tạo lại từ đầu; chủ trương kế hoạch «trăm năm trồng người» nhưng lại giáo dục sự gian trá và thói bạo tàn, đầu óc nô lệ thay tinh thần độc lập, lòng tôn phục bác đảng như đạo đức nhân văn và bản lãnh chính trị; chủ trương vươn tới tầm cao trí tuệ thế giới nhưng lại quy định chức danh «giáo sư» không cần biết ngoại ngữ, lại để cho nạn học giả và bằng giả lan tràn, thậm chí từ các trường đại học, lại tạo những điều kiện ngặt nghèo khiến VN chẳng có mấy bằng phát minh quốc tế (năm 2010 : 5 bằng sáng chế đăng ký tại Mỹ, năm 2011 là zéro bằng). ·
Trò đùa trong an sinh xã hội như bần cùng hóa nhân dân khiến thiếu nữ phải đi lấy chồng ở những quốc gia giàu có, thanh niên phải ra ngoại quốc làm việc, để rồi hầu hết bị trở thành tình nô hay lao nô mà chẳng mấy cơ quan ngoại giao của nhà nước can thiệp cứu vớt. Nạn công nhân nô lệ tại Mã Lai, Đài Loan từ lâu và tại Nga gần đây (trong hai công ty Vinastar và Victoria) đã cho thấy đảng chơi trò đem con bỏ chợ, coi số phận công dân như bọt bèo. ·
Trò đùa với sinh mạng nhân dân: như tiến hành khai thác bauxite ở Tây Nguyên bất chấp việc người sắc tộc bị xáo trộn cuộc sống, đánh mất văn hóa, việc bom bùn đỏ treo trên đầu hàng triệu con người ở đồng bằng Nam bộ, việc Tàu cộng ém quân ở yếu huyệt của Tổ quốc để chờ cơ hội xâm lăng.... như tiến hành dự án nhà máy điện nguyên tử Ninh Thuận dẫu thiếu tài chánh, chẳng đủ chuyên viên, không có lương tâm nghề nghiệp, dẫu các đối tác ngoại quốc mang tiếng tham nhũng, vô trách nhiệm và từng gây tai nạn chết người tại quốc gia họ, dẫu thế giới đã dần dần từ bỏ kỹ thuật hết sức nguy hiểm và tốn kém này... như tiến hành xây dựng hàng trăm đập thủy điện khắp cả nước, đặc biệt ở miền Trung, tạo hạn hán cho các cánh đồng, lũ lụt cho vùng dân cư, treo trên đầu nhân dân những quả bom nước chẳng biết khi nào nổ. Thủy điện Sông Tranh 2 đang làm cho hàng chục ngàn dân khốn đốn, ăn không ngon ngủ không yên, chẳng biết tiêu tan sản nghiệp và tiêu tùng mạng sống lúc nào, thế mà nhà cầm quyền vẫn cứ mắng trách dân kém hiểu biết, vẫn cứ trấn an dân là mọi sự đều an toàn, chẳng đưa ra phương án nào cho dân bớt sợ. ·
Và quan trọng hơn hết là trò đùa với số phận dân tộc: dẫu biết Đại Hán Bắc triều không bao giờ bỏ mộng thôn tính Việt Nam, rồi đang tiến hành kế hoạch xâm lấn và xâm nhập ngày càng lộ liễu trắng trợn, cho tàu quân sự trá hình tung hoành trên biển Đông, gây đủ chuyện xung đột, thế mà đảng vẫn cứ tìm cách bang giao theo kiểu chư hầu, vẫn khư khư giữ chặt trên đầu vòng kim cô «16 chữ vàng, 4 chữ tốt», vẫn cứ tổ chức lễ tri ân quân xâm lược, vẫn cứ chủ trương «lực lượng quốc phòng không tham gia giải quyết xung đột», chỉ “bảo vệ chủ quyền lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình” và khăng khăng bám riết «kim chỉ nam “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”, bảo vệ vững chắc chế độ XHCN mới giữ được độc lập chủ quyền” (Nguyễn Chí Vịnh) để rồi trấn áp không nương tay tất cả những công dân cảnh báo hiểm họa Tàu xâm lược.
· Phiên tòa hôm 24-09 xử ba thành viên câu lạc bộ Nhà báo Tự do tại Sài Gòn chính là hành động mới trong chính sách trấn áp đó, đồng thời cũng là một trong những cao đỉnh của thái độ coi mọi sự chỉ là trò đùa và chà đạp dưới chân tất cả.
Bất chấp khuyến cáo của nhiều chính phủ, cảnh báo của nhiều cơ quan nhân quyền quốc tế, phản đối của vô số công dân và tổ chức đấu tranh cho dân chủ từ khắp thế giới (với hơn 24 ngàn chữ ký) lẫn trong quốc nội, nhà cầm quyền CS vẫn tiến hành phiên xử 3 nhà dân báo ái quốc sau 3 lần trì hoãn (mà một lần dối trá rằng do luật sư yêu cầu) và xử theo điều 88 bộ luật hình sự với khoản 2 là khoản trọng tội. Bất chấp tuyên bố «phiên xử công khai» và dự tính sẽ kéo dài 2 ngày, tòa án đã tiến hành trong vòng bí mật. Thân nhân các bị can vốn có quyền lợi và nghĩa vụ tham dự phiên tòa đều chẳng được mời, trái lại còn bị bắt nhốt khi đến nơi xét xử thân nhân họ. Về nhân chứng thì chỉ có 3 trên l0, song tất cả những kẻ này đều làm chứng chống lại ông Nguyễn Văn Hải. Cả 5 luật sư đều bị giới hạn phần bào chữa, còn các bị cáo thường xuyên bị cắt lời, thậm chí bị thu nhỏ âm thanh để các dự thính viên quốc tế chẳng thể nghe được. Viên chánh án tên Vũ Phi Long đã cho rằng các bị cáo «đưa lên internet những bài viết bôi xấu lãnh đạo, công kích đảng và phá hoại niềm tin của nhân dân vào nhà nước» song chẳng nêu ra được những bằng chứng nào có sức thuyết phục. Rốt cuộc luật sư nói luật sư nghe, còn tòa cứ tuyên phạt theo bản án bỏ túi sẵn : 12 năm và 10 năm cho hai con người bất khuất yêu nước và 4 năm cho kẻ tỏ ra «ăn năn hối lỗi». Mọi sự chỉ diễn ra trong khoảng 4 giờ đồng hồ. Đến khi bản tin được phát trên đài truyền hình toàn quốc, người ta chỉ thấy khuôn mặt và dáng diệu rất can trường của các bị can song chẳng nghe được lời phát biểu đanh thép nào của họ (y như trong mọi bản tin về các vụ án chính trị khác).
Nhưng bên ngoài tòa thì quả là một sự náo loạn chưa từng có. Cả ngàn công an phong tỏa mọi ngả đường vào tòa, phá sóng điện thoại, ngăn chặn hơn 100 bằng hữu của các bị cáo, bắt một số vào đồn giam nhốt, lột áo có hàng chữ ủng hộ, cướp điện thoại lẫn tiền bạc, thậm chí đánh đập tàn nhẫn (blogger Nguyễn Hoàng Vi là thí dụ). Nhà văn Phạm Đình Trọng may mắn lọt vào sân tòa nhưng rồi không chịu rời khỏi đó khi công an đuổi thì sau đấy đã bị chở vào đồn thẩm vấn liên tục rồi áp giải về nhà như một tội phạm. Tột đỉnh của màn kịch bi hài này là lời của viên công an phó đồn phường 6 quận 3, hăm dọa bẻ cổ vợ con anh Điếu Cày và văng tục vào mặt họ, một lời văng tục đã đi vào lịch sử như thông điệp của đảng gửi tới toàn dân và khiến tên trung tá công an côn đồ trở thành điển hình và biểu tượng của chế độ. Phiên tòa lịch sử này đã được tặng những lời lẽ chưa từng thấy : trò hề công lý, sự trả thù mất trí, khi súng đạn kết hợp cùng ngu dốt và sợ hãi, những súc thịt thắt cà vạt, những con đười ươi khoác veston, những kẻ có bộ não và ruột già cùng một chức năng, một lũ chó săn đầu trâu mặt ngựa trấn áp dân lành yêu nước!!!
Các lãnh đạo Ba Đình tưởng chơi trò «coi mọi chuyện như trò đùa, chà đạp tất cả dưới chân» này sẽ giúp họ tồn tại mãi trên ngai vàng làm bằng xương trắng và sơn máu đỏ được sao???
BAN BIÊN TẬP