Trần Nhương - Hoàng Cát còn bị nạn 16 năm vì thiên truyện ngắn nổi tiếng "Cây táo ông Lành". Tôi nhức buốt trong lòng khi nghe bạn nói. Tại sao lại bất công như thế nhỉ. Hy sinh cho đất nước để rồi bọn tham nhũng, bọn cường quyền, bọn sâu bọ ăn ngập miệng. Tôi thầm nghĩ chả nhẽ "Cây táo..." vẫn đang di căn theo đuổi đời Hoàng Cát?...
*
TN trao quà cho Hoàng Cát |
Sáng nay 15-12-2012, tôi đến thăm Hoàng Cát. Tôi đến bệnh viện thì anh vừa về nhà, mặc dù phẫu thuật ổ bụng vẫn chưa ổn định nhưng phải ra viện để đi trị xạ ung thư hạch cổ.
Tôi được ủy nhiệm của các bạn VNS Huế và một bạn yêu văn chương trong SG và một chút của tôi. Tôi chuyển cho Hoàng Cát số tiền 7,2 triệu để anh thêm chút chi cho việc trị xạ.
Cát nằm trên giường, sắc diện chưa đến nỗi nào mặc dù sút 5 kg. Chơi với nhau nhiều lúc câu thơ tung tẩy mà ít khi nói với nhau về đời sống. Tính Cát lại không hay kêu ca. Hôm nay hỏi ra mới biết Hoàng Cát bị thương mất một cẳng chân ngày 20-12-1969 đúng dịp Tết âm lịch, tại Quảng Đà. Cát làm tại nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo gần 20 năm. Do thương binh nên anh về mất sức năm 1980.
Chân cụt của Hoàng Cát |
Bây giờ hàng tháng anh chỉ có trợ cấp hơn 1 triệu đồng, nghe đâu sẽ chỉnh lên 1,5 triệu. Cát bảo đã được lĩnh chó đâu. Tôi ngạc nhiên hỏi thế không có trợ cấp thương binh à ? Cát nói đếch có gì “thương binh thật thì không trợ cấp, thương binh rổm thì nhận tiền. Đời nó chó thế mày ạ...”
Rồi vợ chồng Hoàng Cát bảo tôi họ xếp thương tật của Cát loại thấp nhất trong thứ bậc thương binh. Trời đất mất một cẳng chân mà chỉ ngang anh mất một ngón tay…”Tao đếch thèm phong bì chúng nó nên nó xếp cho mình loại bét, tao thương cái chân tao dại dột bỏ lại Quảng Đà…”
Hoàng Cát còn bị nạn 16 năm vì thiên truyện ngắn nổi tiếng "Cây táo ông Lành". Tôi nhức buốt trong lòng khi nghe bạn nói. Tại sao lại bất công như thế nhỉ. Hy sinh cho đất nước để rồi bọn tham nhũng, bọn cường quyền, bọn sâu bọ ăn ngập miệng. Tôi thầm nghĩ chả nhẽ "Cây táo..." vẫn đang di căn theo đuổi đời Hoàng Cát?
Thương bạn tôi mà chỉ biết kêu lên liệu có ai nghe thấu, hỡi những ông đầy tớ nhân dân.
Sắp tới trị xạ chắc Cát cần có tiền để lo mà vợ chồng Hoàng Cát quá nghèo. Rất mong các nhà hảo tâm giúp đỡ một nhà thơ, thương binh, tác giả thiên truyện ngắn nổi tiếng "Cây táo ông Lành".
*
Hoàng Cát là thế
Vương Trọng - Tôi quen Hoàng Cát từ năm 1972, khi học lớp Bồi dưỡng sáng tác của Hội nhà văn Việt Nam ở Quảng Bá. Lớp học được triệu tập từ đầu tháng 10, nhưng do hoàn cảnh chiến tranh, đi lại khó khăn nên học viên về rải rác, có người chậm đến ba tháng, nên hầu như tuần nào cũng xuất hiện thêm học viên mới. Bữa trưa chúng tôi thường ăn đứng dưới dàn nho, một lần vì thấy thức ăn quá "khiêm tốn", có người nói rằng ăn uống như thế này thì không nên đi học, tiếp đó ý kiến lan rộng, anh em đùa nhau bàn chuyện viết bài Phản chiêu sinh (nhại Phản chiêu hồn của Nguyễn Du) và mở đầu bằng câu: Sinh ơi, sinh đừng về!
Trong số người tham gia "hăng hái", tôi chú ý tới một anh nói tiếng Nghệ, trán cao, mắt đa tình, da trắng, người trông thư sinh, đẹp trai. Đó là Hoàng Cát. Tuy cả hai cùng nội trú, nhưng tôi ở khác phòng, hơn nữa, trước đó tôi chưa được đọc thơ của anh, cộng thêm cái bản tính tôi làm quen rất chậm, nên hàng ngày chỉ gặp anh khi lên lớp và bữa ăn, chúng tôi chưa có dịp nói chuyện riêng. Và trong mấy tuần đầu, tôi không hề biết anh là thương binh cụt chân, phải đi bằng chân gỗ. Là vì bước chân của Hoàng Cát bao giờ cũng ngay ngắn, đàng hoàng, không hề khập khiễng một chút nào. Anh bị thương năm 1969 ở Quảng Nam, sau một năm chuyển dịch qua các binh trạm dọc đường Trường Sơn mới ra được miền Bắc để điều dưỡng và lắp chân giả. Dạo ấy chỉ cần tập đi một vài tuần, dáng đi của anh chẳng khác người bình thường, được thủ trưởng đơn vị điều dưỡng chọn làm mẫu cho các thương binh mới lắp chân giả học tập. Vì thế, không chỉ tôi, mà nhiều anh em khác cũng phát hiện ra Hoàng Cát đi chân giả rất muộn, có người gần ba tháng sau mới biết. Đó là những ngày cuối năm 1972, máy bay B 52 Mỹ ném bom Hà Nội. Từ đêm 18, cuộc tập kích chiến lược của Mỹ bắt đầu. Học viên chúng tôi đêm ngủ trong nhà nhưng hễ nghe báo động là chạy nhanh xuống mấy căn hầm tập thể ở góc vườn. Có lúc ở hầm, nghe báo yên, về giường mình vừa đắp chăn chưa kịp ấm chỗ, lại nghe còi báo động, vội vùng dậy chạy ra. Khốn khổ cho Hoàng Cát, với chiếc chân giả, bao giờ đi ngủ cũng phải tháo ra, khi dậy mới lắp vào, nhưng loại chân giả ấy tháo lắp rất khó, còi báo động đã lâu, bom đạn nổ khắp nơi, Hoàng Cát vẫn chưa lắp xong chân giả! Mà một đêm có đến bảy, tám lần báo động. Về sau anh em trong phòng phân công nhau khi nghe báo động thì một người cầm hộ chân giả còn hai người cõng anh ra hầm. Chúng tôi còn ở lại Hà Nội ba đêm nữa rồi mới đi sơ tán. Những đêm sau, Hoàng Cát thấy phiền cho bạn bè nên anh xin một ít rơm, lót xuống đáy hầm để ngủ luôn dưới đó. Nhưng sự thật, những đêm sau chúng tôi không ai ngủ được, phần thì báo động liên tục, phần thì mải xem tên lửa ta đốt cháy B52 trên bầu trời Thủ đô. Hoàng Cát không tháo chân giả nữa, mà chạy đi chạy lại không chỉ quanh hầm, mỗi khi thấy máy bay Mỹ bốc cháy, Hoàng Cát là người hò hét hăng nhất, sớm mai đi ăn sáng cổ khản đặc.
Anh em quen gọi khoá học đó là khoá B52, giữa khoá học chúng tôi sơ tán bằng cách chia nhau đi thực tế các trận địa cao xạ, tên lửa. Hoàng Cát đi thực tế muộn hơn vì bận cưới vợ vào ngày Noel năm đó, tổ chức tại nhà Xuân Diệu. Đám cười chỉ vẻn vẹn một mâm chế biến từ một con vịt, khách mời có Xuân Diệu, hai vợ chồng Huy Cận, Phan Xuân Hạt và Võ Văn Trực. Sau này nghe tin vợ anh sinh con gái, có đồng hương đùa rằng vì cưới bằng vịt!
Sau khi khoá học kết thúc, tôi đi thực tế chiến trường một thời gian rồi chuyển về công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, còn Hoàng Cát trở lại nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo, nơi anh là một cán bộ kỹ thuật. Hơn một năm sau thì xẩy ra vụ "Cây táo ông Lành". Bây giờ đọc lại mẩu chuyện này, ai cũng thấy đáng buồn cho ấu trĩ một thời của những người lãnh đạo văn nghệ. Người ta cho là một chuyện động trời, tác giả dám mượn viết cho thiếu nhi để nói xấu cán bộ cấp cao. Bạn đọc biết nhiều đến Hoàng Cát từ đó. Người ta thi nhau tìm đọc truyện đó. Dạo ấy chưa có phô tô nên nhiều người chép tay. Có người trách Hoàng Cát liều lĩnh, nhưng số đông chẳng thấy điều gì ẩn ý trong mẩu truyện ấy. Nhà thơ Xuân Diệu nói đùa với báo Văn Nghệ: "Các ông gác gôn thế nào mà bị thằng Cát một chân nó sút thủng lưới". Mấy anh đồng hương xứ Nghệ làm câu đối: "Thằng Cát viết điều hung / Ông Lành làm việc dữ", nhưng sau sửa lại để thay cho một lời phát biểu với cấp trên: "Thằng Cát không viết điều hung / Ông Lành đừng làm việc dữ". Nhưng có lẽ cấp trên không thấu nên "việc dữ" cứ đến với Hoàng Cát, mà cái đòn đầu tiên là nhà máy cho về mất sức. Dạo ấy đời sống cán bộ công nhân cực kỳ khó khăn, tiền lương hai vợ chồng đi làm chỉ để mua gạo là chính. Vợ là công nhân làm sao đủ nuôi hai vợ chồng? Nhà anh ở trong ngõ sâu, chẳng ai qua lại, làm sao mà buôn bán? Nhưng đói lắm đầu gối phải bò! Thôi thì làm chiếc xe đẩy, sắm ấm nước, cái phích ra ngồi vỉa hè. Một chén nước chè năm xu, mười chén được năm hào, nhưng có cả buổi không bán nổi mười chén, Lại bị công an, cán bộ phường truy đuổi, ngồi một chỗ không được thì đẩy xe đi bán nước rong. Đi nhiều, mỏi chân thì tìm nơi ngồi, có khách mua là quý, không ai mua thì cũng được nghỉ và có khi còn làm được... thơ! Sau mấy tháng trời sáng đẩy xe nước đi, tối đẩy xe về, trưa mua cái bánh mì ngồi nhai cho xong bữa, sô tiền lãi chẳng thấm tháp vào đâu so với giá gạo, lại có người mách cho chuyển sang nghề bì bóng, nem chạo. Mờ sáng anh đạp xe đến các lò mổ đi mua bì lợn. Vì tiền ít, không dám động tới những tấm bì to, giá cao, mà "chuyên trị" những miếng đầu thừa đuôi thẹo, đủ loại hình dáng, diện tích nhỏ nhưng nhiều lông! Mua về làm sạch lông, luộc chín, chọn miếng "khả dĩ" hơn thì căng ra phơi khô, cuối năm đưa vào lò sấy làm bóng bì để bán trong dịp tết. Nhưng loại này chỉ chiếm một phần rất nhỏ, phần lớn thì thái chỉ, trộn thính, lá chanh làm nem chạo. Chính cái thứ nem chạo này đã nuôi sống gia đình ông trong nhiều năm, kể cả tiền để nuôi cháu Thu Trang học đại học Ngoại ngữ (mà sau này chính cháu đã cứu cả gia đình qua cơn bĩ cực). Vất vả là thế mà trước tết âm lịch, bạn đồng hương xứ Nghệ vẫn nhận được những miếng bóng bì ông tặng, nói là "cây nhà, lá vườn", nhìn quà, nhìn người, nhớ chuyện mà thương. Những năm ấy, tôi nhiều lần đến thăm nhà, và hình ảnh sau đây của ông đọng mãi trong ký ức tôi: trên khoảnh sân nhỏ ướt át tráng xi măng nham nhở, ông ngồi dùng cái díp nhổ râu nhổ những cái lông lợn còn sót lại trên một mảnh bì nhỏ, bên cạnh là chiếc chân giả tháo ta nằm chơ chỏng! Tôi đã từng đùa để át niềm xúc cảm: "Nhổ cho cẩn thận đấy, không khéo người ta treo díp như đã treo bút thì nguy"!
Trong những năm đó, Hoàng Cát bị treo bút theo nghĩa là bài của ông gửi thì không báo nào in nên không thể kiếm được một đồng nhuận bút nào. Nhà thơ Phạm Đình Ân, vốn cùng bạn học lớp viết văn Quảng Bá, lúc đó đang biên tập chuyên mục "Chuyện lớn, chuyện nhỏ" của báo Nhân Dân, biết hoàn cảnh nguy khốn của Hoàng Cát, nên đã bí mật bàn ông đổi bút danh, tham gia viết bài, có thêm ít đồng cho đỡ khổ. "Một miếng khi đói" bằng "một gói khi no", quý vô cùng. Có lần Hoàng Cát nói đùa: "Họ treo bút mình thì mình làm thơ không cần bút! Làm nhẩm một chỗ khi ngồi bán nước chè chén hay nhổ lông lợn, làm nhẩm dọc đường khi đạp xe đi mua bì lợn, thính gạo, hoặc lá chanh...". Rồi những bài thơ viết thời treo bút ấy tập trung lại thành tập thơ Tháng giêng dai dẳng được ra mắt bạn đọc nhờ sự "tài trợ" của nem chạo và bóng bì! Tập thơ mỏng, in xấu nhưng đọc xong, ai cũng thấy ngậm ngùi, cám thương cho một số phận. Bà mẹ vợ đọc hết tập thơ, đêm nằm khóc một mình, sớm mai gọi con gái và con rể đến, cho hai vợ chồng ông mấy cây vàng để sửa chữa nhà cửa và cải thiện cuộc sống, vì qua tập thơ, bà đã hiểu tất cả. Anh em lại nói đùa rằng, chưa một nhà văn xứ Nghệ nào có khoản nhuận bút to như Hoàng Cát được nhận từ mẹ vợ!
Hoàng Cát sinh năm 1942 tại Nam Đàn, Nghệ An và là người nặng tình với quê hương. Buồn cho ông là bố mẹ không còn, ở quê thưa vắng người máu thịt gần gũi nên chỉ về quê được vài ngày, ông trở ra Hà Nội. Ở Hà Nội, ông là người có công lớn nhất trong việc gắn kết bộ năm "đồ Nghệ": Nguyễn Bùi Vợi, Võ Văn Trực, Quang Huy, Vương Trọng, Hoàng Cát. Bạn đọc lưu ý rằng, Quang Huy tuy gốc bắc, nhưng từ lâu đã nhập "quốc tịch" Nghệ Tĩnh. Khi một ai đó ốm đau, thường ông là người đưa tin rồi tổ chức đi thăm nom. Không biết bao lần từ khu tập thể Trương Định, ông phóng xe xuống đón Võ Văn Trực ở khu tập thể bên kia cầu Trung Hoà để vào bệnh viện Hữu Nghị thăm Quang Huy hay Nguyễn Bùi Vợi. Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi lâm bệnh nặng gần ba năm trời, không biết mấy lần vào viện, và khi nào Hoàng Cát cũng là người đưa tin và rủ anh em đồng hương đến thăm. Đến tháng tư năm 2008, bệnh anh Vợi càng nặng, không nhận ra người đến thăm mình. Trước khi đi dự trại viết hai tuần ở Tam Đảo, Hoàng Cát đến đưa số điện thoại di động của mình cho chị Từ, vợ anh Vợi và dặn rằng: "Anh Vợi có mệnh hệ gì thì chị gọi điện, thế nào em cũng về"! Cũng may đầu tháng Năm anh Vợi mới mất, Hoàng Cát đứng chịu tang như một người em ruột.
Hoàng Cát thích chơi cờ tướng và thỉnh thoảng có những nước cờ xuất thần, nhưng thường để mất quân vô cớ. Khi ngồi chơi cờ, miệng ông nói liên tục để gây cười và trêu chọc đối phương, thường làm cho những người lần đầu chơi cờ với ông có cảm giác khó chịu. Khi là những câu tiếng Pháp ông học được từ nhà thơ Xuân Diệu, thường xuyên hơn là những câu đặc Nghệ, chèn tiếng Hán nói về các thế cờ như tam quân chiến, nhị quân hưu, song mã ẩm tuyền hay lưỡng hổ hàm thi! Người mới gặp ông, xem ông đánh cờ, nghe ông nói tưởng ông coi thường người khác và cay cú khi thua. Sự thật hoàn toàn ngược lại: ông chỉ coi cờ tướng là chỗ bạn bè gặp gỡ, chơi đùa với nhau, chứ được thua ông không hề quan tâm. Có lần tôi đã phải thốt lên sau khi thắng ông quá đậm: "Tau tức nhất khi chơi cờ với mi là dù thua bao nhiêu mi cũng không tức"!
Ông ghét nguyên tắc, khá cực đoan, và có khi nổi nóng không ngờ. Đó là lần đến chơi nhà Võ Văn Trực. Khi hai người đang nói chuyện trong nhà thì người thu tiền nước đến gọi cửa và nói đùa: "Ông Trực có nạp tiền nước không, hay là muốn cắt nước đây"! Võ Văn Trực chưa kịp trả lời thì Hoàng Cát đứng phắt dậy, đỏ mặt tía tai lao ra cửa, tay nắm lấy cổ áo người thu tiền nước, quát lớn: "Bỏ ngay cái thói cửa quyền. Nhà nước giao cho ông cấp nước phục vụ dân hay doạ nạt dân..."? Nếu Võ Văn Trực không kịp can ngăn thì có lẽ ông thu tiền nước còn lĩnh đủ!
Hoàng Cát là người phóng túng, sống hết mình, tiền bạc ông không coi trọng và lắm khi còn coi thường ngay cả tính mạng của mình. Mặc dù "tim bong, chân chắp", nhưng đã lên xe máy là phóng như bay, thanh niên phải nể. Bởi vậy chuyện ông ngã xe, bất tỉnh dọc đường không phải là hiếm. Những ngày mặt mày xây xát, ông ân hận, làm thơ thương vợ vì mình mà khổ, tự nguyện để cho con giấu chìa khoá xe máy, hứa sẽ không bao giờ dùng đến, thế nhưng vừa lành vết thương, đâu lại vào đấy, một ngày chưa lên xe phóng đi đâu đó là coi như... chưa sống!
Đã chạm tuổi “cổ lai hy”, nét đẹp trai ngày nào đã thành đẹp lão. Da đỏ, trán cao, tóc màu sợi đay buông xuôi đến tận vai. Một lần nhà thơ Trọng Khoát, cùng đồng hương Nam Đàn, hơn Hoàng Cát trên chục tuổi, gặp đã phải thốt lên một câu toàn tiếng Nghệ: "Ngong mi hệt cố tra" (trông mày giống hệt cụ già), tôi đỡ lời Hoàng Cát đáp lại: "Tra mô mồ mà tra" (đã già đâu nào) và chứng minh Hoàng Cát còn rất nhạy cảm với phái đẹp. Sau mỗi chuyến đi công tác xa, ông viết một loạt hàng chục bài thơ tình để tặng một người phụ nữ vừa mới quen với nhiều khổ đau, dằn vặt. Đồng hương nhắc đừng thơ dại về tình yêu, ông giận dỗi bảo rằng mình là lửa nên chỉ biết cháy! Đứng xa vài chục mét thấy Hoàng Cát dùng điện thoại di động cũng dễ dàng phân biệt được rằng ông đang nói với đàn ông hay đàn bà! Có khi đang thao thao giọng châm chọc trong cuộc cờ, bỗng nghe chuông réo, nâng điện thoại di động lên, đổi giọng cất lên hai tiếng "Em ạ!" ngọt ngào đến vô lý!
Đấy! Hoàng Cát là thế!
*
Hoàng Cát |
Cây táo ông Lành
Truyện ngắn của Hoàng Cát
Tên thật ông là gì, nhiều người không biết. Đã từ lâu, người ta vẫn quen gọi ông là ông Lành. Vì tính ông hiền lành và rất yêu lũ trẻ trong làng. Lâu dần, nó thành ra tên của ông.
Vườn nhà ông khá rộng, có nhiều cây ăn quả như chuối, mãng cầu, vú sữa, táo... Ông Lành thú nhất là cây táo lai. Nó đứng ở góc vườn, trùm cái tán khum khum lên một vạt đất chừng dăm tấm chiếu. Cạnh cây táo quý ấy, ông đã cất lên một căn nhà ba gian, hai chái; chung quanh tường xây gạch, mái còn tạm lợp tranh. Ấy là căn nhà ông làm chuẩn bị cho cậu con trai duy nhất của ông lấy vợ, ở riêng. Nhưng nhà vừa làm xong thì thằng Sửu lại xung phong vô bộ đội đợt đầu tiên, kể từ sau khi có lệnh hoà bình của Chánh phủ cách mạng lâm thời.Thế là ngôi nhà đành tạm để không. Và nó được mang mãi cái tên “Nhà mới”. Mặc dù cho đến nay, mái tranh của nó đã có đôi chỗ dột vì chuột bọ, vì thiếu hơi người ở.
Cây táo quý đứng ngay góc sân ngôi nhà mới ấy. Cây táo càng đẹp thêm, và ngôi nhà cũng đẹp thêm.
Mé dậu vườn là con đường ống chạy xuyên qua làng. Sáng sáng, lũ trẻ học trò lớp Một đi tắt qua đấy để đến trường. Bao giờ chúng cũng đi thật sớm, tíu tít như một đàn chim, vồ lượm những quả táo rụng.
Vốn là một ông già yêu trẻ, ông Lành lấy thế làm niềm vui. Nhiều khi đứng trong cửa sổ nhìn ra, ông thấy lũ trẻ lấy gạch ngói, đất đá hoặc que khăng ném cho táo rụng xuống để lượm được nhiều. Ông cũng chẳng la mắng chúng nó làm chi. Ông hiểu, lũ trẻ thích ăn táo lắm. Chỉ những đứa trẻ nào nghịch quá, ném vung đất đá vào sân hay làm rơi hỏng mái tranh ngôi nhà mới của ông, thì ông mới nhẹ nhàng bảo chúng đừng ném nữa. Lũ trẻ cũng biết nể ông, ông chỉ cần nhắc một lần là chúng ngoan ngoãn rủ nhau kéo đi. Chúng vừa đi, vừa ăn táo, và “nhồm nhoàm” trêu chọc lẫn nhau. Rồi chúng đuổi nhau chạy. Rồi chúng cười. Rồi chúng hát nghêu ngao...
Những lúc thảnh thơi, ông Lành nhìn lũ trẻ hò nhau nhặt táo rụng mà càng thêm ao ước một ngày gần đây thằng Sửu về cưới vợ; rồi ông sẽ có những đứa cháu cũng líu lo như thế. Ước mơ ấy luôn cho ông niềm vui ngầm trong bụng.
Bà vợ ông đã chết vì bom toạ độ Mỹ từ mùa gặt năm 1967, đúng vào kỳ cây táo sai quả nhất. Thằng Sửu của ông cũng đã đi thoát ly, vào quân chủ lực. Chỉ còn lại mình ông. Nỗi thèm khát có đứa cháu bên cạnh cho ấm áp tuổi già, càng lúc càng âm ỉ trong lòng ông Lành. Những đêm sương nặng hạt, nằm không ngủ được, lắng nghe tiếng táo rụng lộp bộp ngoài vườn lẫn với tiếng sương rơi, ông Lành chỉ mong chóng sáng để được thấy lũ học trò đi qua nhặt táo...
Nhưng một buổi sáng ông đang ngồi hí húi vót lạt mây để buộc cái nạng, chống cho cây táo đỡ ngả xuống vườn vì nặng quá, thì bỗng “bịch rộp!” – một hòn đất rơi trúng đầu ông, tung toé cả lên vai, lên gáy! May mà hòn đất bở, không to lắm, chứ không thì có lẽ ông đã té xỉu xuống rồi. Thế mà cũng choáng váng mất một lúc. Vừa ngẩng lên, ông Lành thấy thằng Thìn đang trân trân nhìn ông, vẻ hối hận lắm. Nó lắp bắp:
- Cháu... cháu lỡ!... Ông tha...
Đang cơn bực mình, ông Lành ném cây rựa xuống sân đánh “phựt” , đứng phắt lên:
- Ông, ông cái con khỉ!... Hoảng quá, thằng Thìn co giò bỏ chạy. Cũng vừa lúc ấy, nó gặp lũ bạn ngoài ngã ba cây bông điệp. Nó cản các bạn lại, làm ra vẻ bí mật:
- Nè, chúng bay à! Tao đi qua cây táo ông Lành vừa nãy, mà sợ quá, phải chạy lui đó nghe!
- Sao?- Gì thế? Cái gì thế?
Lũ bạn nhao nhao lên hỏi, đầy vẻ băn khoăn và sợ hãi.
Thắng thìn, cậu bé lên tám, mắt tròn ấy, bấy giờ mới một tay kéo quần, một tay vừa ôm vở, vừa vung lên làm hiệu và nói như thật:
- Tao đi qua cây táo ông Lành, tưởng như mọi khi, tao vô lượm trái rụng. Bất chợt có tiếng “ư hừm!” rõ to! Mà giọng nó ồ ồ kỳ lắm! Tao tưởng là ông Lành đùa. Nào ngờ, nhìn khắp mà chẳng có ai hết. Tao lại nghe “ư hừm” thiệt to và kéo dài lượt nữa; chừng như có người nào ngồi trên cây táo. Tao mới nhìn lên, thì eo ôi! Một cái sọ dừa đen ngòm trên ấy nó trêu tao! Tao sợ hết hồn, co cẳng vùng chạy một mạch tới đây. Hú vía!
Thìn kể say sưa và hồi hộp thật. Các bạn nó ngơ ngác nhìn nhau, giọng se sẽ thì thào; có đứa tái mét cả mặt:
- Vậy làm sao mà tới lớp bây giờ? Thìn liền láu lỉnh:
- Đây có phải là đường chính của chúng mình tới Trường đâu. Đường chính là đường to, vòng quanh làng chứ. Đường qua vườn ông Lành là đường tắt cho nhanh!
Lâu nay lũ trẻ quen đi đường tắt này, vừa nhanh lại vừa được lượm táo. Bây giờ, nghe Thìn nói vậy, cả lũ réo lên:
- Thôi! Bỏ đường cây táo ông Lành!
- Bỏ thôi!- Bỏ! Bỏ!
Vậy là lũ trẻ quay ùa ra đường cái, vòng quanh làng.
Riêng có thằng Tỵ và thằng Ngọ chưa tin hẳn lời thằng Thìn, bèn rủ nhau bò tới rình xem. Chỉ một lát sau, hai đứa vội vàng co giò chạy trở lại; càng làm cho lũ trẻ tin chuyện cái sọ dừa đen trên cây táo là có thật.
Từ đó , đường qua vườn ông Lành vắng hẳn.
Những quả táo chín, rơi vàng cả một góc sân ngôi nhà mới, rơi cả ra đường...
Ông Lành nhìn táo rụng vàng ối, mà chẳng có trẻ nhặt, lòng dạ không đành.
Đêm nằm nghe tiếng táo rụng với tiếng sương rơi lộp bộp ngoài vườn, ông thắc thỏm đoán ngày mai thế nào lũ trẻ cũng đến lượm, hò reo, hí hửng với những túi táo đầy. Nhưng đã hết năm ngày , năm đêm rồi , mà vẫn không nghe tiếng chân lũ trẻ đi qua nhà ông để đến trường nữa, chứ đừng nói là chúng vào lượm táo.
Ông Lành ân hận. Hay là thằng nhóc ấy đã nói với lũ bạn nó thế nào, để tất cả lũ chúng giận ông? Mà ông đã làm gì nó kia chứ! Một cục đất rơi thẳng vào đầu, chứ có phải chuyện chơi đâu.
Chưa biết căn nguyên vì sao lũ học trò lớp Một trong làng lại không đi qua nhặt táo rụng nữa, nhưng ông Lành cũng mang cái rổ ra lượm tất cả táo trên sân, trên vườn, rửa sạch sẽ. Thế nào rồi cũng có lúc chúng nhớ mà đi qua chứ.
Ông vừa làm xong việc đó được một lúc, thì chợt thấy thằng Mùi hớt hơ hớt hải cắp sách chạy qua. Nhưng nó không đoái hoài đến cây táo. Ông Lành liền gọi giật nó lại:
- Nè con!
Thằng Mùi ngoái đầu, “dạ” một tiếng rõ to, rồi định quay đi chạy thẳng. Nhưng ông Lành đã kịp bưng rổ táo chín múp chạy tới , giữ nó lại. Thằng Mùi tròn mắt, không dám lấy:
- Táo có ma đầu-lâu-đen, cháu không ăn đâu ông ạ! Ông Lành ngạc nhiên:
- Ai bảo mày thế?
- Thằng Thìn! Hôm kia nó đi sớm, vào lượm táo một mình, bị ma đầu-lâu-đen doạ “ưm hừm” đấy!
- Ở đâu? – Ông Lành càng ngạc nhiên.
- Nó bảo có đầu- lâu-đen trên cây táo của ông! – Thằng Mùi vừa thở vừa nói, rồi quay mặt đi chỗ khác, đưa tay chỉ lên cây táo. Ông Lành mới vỡ lẽ! Ông chửi yêu thằng Mùi, chửi yêu cả lũ bạn nó:
- Cha mẹ chúng bay nghe! chỉ bày trò dại mà doạ nhau thôi. Tổ kiến đen đấy cháu ạ! Ông nuôi tổ kiến trên ấy cho nó ăn sâu đi, để táo khỏi bị sâu ăn chứ.
Rồi ông Lành ngồi vậy, ôm hẳn thằng Mùi đứng vào giữa hai đùi ông:
- Cháu đến lớp nói với các bạn là không có ma nào hết nghe! Đây nè, để ông đi chọc tổ kiến cho cháu xem.
Rồi ông Lành cười thoả thuê, dắt tay thằng Mùi đến bên cây táo, lấy sào nứa đâm vào tổ kiến. Lập tức đàn kiến bò ra, bu đen cả đầu sào. Thằng Mùi vỗ tay reo lên, cười khanh khách. Rồi nó quay vội sang, nói với ông Lành:
- Bữa nay vì cháu ngủ quên, sợ đến trễ, cô giáo la, nên mới liều chạy tắt qua đường này đó ông ạ! Bây giờ cháu phải đến lớp kẻo trễ, nghe ông!- Ờ! Mà cháu phải mang chỗ táo ông nhặt đây cho cả lớp ăn với chứ.
Trước đây, cô giáo Hà đến xin ông Lành cho mượn căn nhà mới để làm trường cho học sinh lớp Một. Suy đi tính lại, rồi ông không cho. Lắm lúc, ông cũng thấy có cái gì đó không đành. Hoá ra, như thế mình không nghĩ đến tình làng nước nữa sao? Nhưng mà, ái chà chà! Cái lũ trẻ ấy cũng nghịch quá lắm! Nếu để cho chúng nó học ở đấy, rồi đến tường nhà cũng lở lói hoặc bị bôi vẽ bẩn thỉu những gà mẹ, gà con, lợn nái, mèo hoa lên thôi, Và tất nhiên là cây táo quý hoá của ông cũng sẽ trụi thụi lụi cả quả lẫn cành mất.
Nhưng chỉ mấy ngày vắng bặt tiếng trẻ hò reo lượm táo, vắng bặt tiếng rậm rịch bước chân của lũ chúng qua trước nhà ông để đến lớp học, ông Lành mới thấy hết thế nào là hạnh phúc của một người ông. Ông nhớ lũ trẻ hơn hớn kia quá. Và ông càng đâm ra nghĩ ngợi , nhớ lây sang thắng Sửu nhà ông , với niềm hy vọng một ngày gần đây ông sẽ có cháu nội. Rồi chúng cũng đi học lớp Một, cũng nhặt táo rụng trên vườn kia...
Thế là ông Lành quyết định đến lớp gặp cô giáo Hà. Và tất nhiên, ông sẽ được gặp tất cả lũ trẻ nữa. Thứ nhất, ông sẽ nói để cô giáo biết chuyện thằng Thìn bịa ra trên cây táo quý của ông có cái đầu lâu đen, làm cho lũ trẻ khiếp vía, sợ lây cả ông. Thứ hai, ông sẽ bảo cô giáo chuyển cho lũ nhỏ về ngôi nhà mới của ông mà học. Chả là ông đã nghe phong thanh, đâu cái chỗ lớp học hiện giờ chật chội quá, cô giáo Hà định dời lớp sáng một làng khác.
Ông Lành đến lớp học của lũ trẻ lớp Một. Vừa thấy ông từ xa, lũ trẻ đã cầm mỗi đứa một vài quả táo trên tay, chạy ùa ra hò reo đón ông.
Riêng có thằng Thìn vội ngồi sụp xuống dưới chân bàn, mồm đang ngậm một quả táo, mỉm cười tinh nghịch. Nó đỏ dừ hai tai...
Mùa táo chín 1973
Hoàng Cát