Chuyện người lính Vị Xuyên - Dân Làm Báo

Chuyện người lính Vị Xuyên

Đỗ Trường (Danlambao) - Tôi trở về quê vào một chiều chớm đông. Cái nắng hanh khô cuốn theo từng cơn gió, như rắc vàng lên đồng ải bên sông. Vẫn đàn chim sẻ đang cần mẫn tìm sâu, bắt bọ trên những luống đất xốp thẳng tắp, ngả màu. Nước đã mấp mé cửa sông. Có lẽ, cống ngoài đê sắp mở để nước tràn vào đồng ngậm ải, và báo hiệu mẻ rươi đầu mùa đã đến. Mùa của sự vần vũ, mà tạo hóa thiên nhiên đã ban tặng cho con người một sản vật, một món ăn dân dã, nhưng dường như gói trọn cả cái hương hoa tinh túy của đất trời...

Tiếng xe máy sau lưng chợt cắt ngang dòng suy nghĩ. Tôi quay người, xe chồm đến trước mặt, tiếng phanh khô dầu như xiết vào tai. Giật bắn cả người, tôi chưa kịp định thần, thấy Ân, ông bạn thời trẻ trâu ngồi trên xe, cười khùng khục:

- Bú sữa Tây nhiều, tưởng đã quên nhau rồi!

Vỗ vai hắn, tôi cười:

- Thế ai về thăm ông đây?

Hắn đế tiếp:

- Nói vui vậy thôi, nghe tin ông về, trưa đến giờ tôi cứ thấp thỏm. Lên xe đi. Hôm nay, giỗ mãn tang con gái đầu.

Mấy chục năm gặp lại, Ân vẫn vậy, vồn vã, ồn ào, và yêu quí bạn bè. Định bảo Ân xuống xe cùng đi bộ, nhưng bất chợt nhìn thấy chiếc chân gỗ của hắn, tôi đành phải lên xe.

Nhà Ân đã chuyển xuống cạnh nhà của vợ chồng chị Hậu. Ngôi nhà tềnh toàng, lộn xộn, dường như thiếu bàn tay của người phụ nữ. Mâm cơm cúng được đặt trên chiếc tủ chè mất cánh. Hương khói đã tàn, cho tôi cảm giác lạnh lẽo, rờn rợn. Nghe tiếng động sau nhà, ngỡ là vợ hắn, tôi quay lại. Ân bảo:

- Anh Cu Lớn chồng chị Hậu đấy, vợ tôi vào Sài Gòn làm Osin, nuôi thằng út học đại học đã mấy năm rồi.

Nhà chị Hậu trước ở trung tâm xã, ngày Mỹ ném bom miền Bắc, tôi có ở một thời gian. Hết chiến tranh, chị bị cán bộ, chính quyền lừa chiếm đất, buộc phải đổi nhà xuống cuối làng, cạnh khu nghĩa địa này. Chị kiện cáo khắp nơi, còn anh Cu Lớn chồng chị, cứ rượu vào, giắt dao vào bụng đi tìm cán bộ, nhưng cũng chỉ như đá tõm ao bèo. Sau đó, có lẽ quá uất ức, chị phát bệnh và qua đời.

Đứng ở cửa nhà, nhìn thấy tôi, anh Cu Lớn cầm chai rượu và mấy chiếc bánh đa nướng, ngật ngưỡng đi tắt vườn sang. Tôi chưa kịp chào, anh đã bảo:

- Chú nhắn hôm nay về, làm xong cơm cúng, anh bảo, thằng Ân lòng vòng mấy lần ra đầu làng đón từ trưa đến giờ.

Tôi xúc động, cúi xuống nắn nắn vào đôi chân thương tật của anh:

- Vậy là, chỉ còn hai ông, hai thế hệ múc nhau với Mỹ và Tàu, trở thành thương phế binh què cụt ở nhà.

Anh Cu Lớn và Ân mắt đỏ ngầu, quay mặt đi, rồi cùng cười:

- Không sao… không sao, quen rồi!

Thời chiến tranh, mảnh đất nơi đây, không có đàn ông, mà chỉ còn phụ nữ và trẻ con. Rồi sau hòa bình mấy chục năm, dường như đổi ngược lại, làng không còn đàn bà, thiếu tiếng trẻ thơ mà chỉ còn lại những người đàn ông tật nguyền, thương phế binh. Và nhìn anh Cu Lớn, nhìn Ân, chợt làm tôi nhớ đến câu thơ của Lưu Quang Vũ đã vẽ ra hình ảnh, thân phận của những người lính nông dân ấy, ngay từ ngày đầu của cuộc chiến tang thương nhất của dân tộc:

“Người mài mực cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô
Quang Trung trên bành voi, Người cầm giáo xông lên phía trước
Quang Trung lên làm vua, Người về nhà cày ruộng
Bị lão Trương tuần bắt nạt cũng run…”

Thấy tôi đứng ngẩn tò te, Ân vỗ vai:

- Thôi ngồi xuống làm chén rượu cho ấm cái bụng đã.

Tuy đói, nhưng quả thật, đồ cúng đã lạnh tanh, nhạt nhẽo, khó nhai, không thể nuốt, tôi bảo Ân:

- Có đề nghị với ông đây, nhưng không được giận nhé!

- Không giận, có gì nói đi.

- Đồ cúng lạnh quá, hơn nữa ông đếch biết nấu, nên không nuốt được. Bây giờ bê mâm xuống bếp, tôi sẽ nấu lại đồ ăn. Trải chiếu ở đó, chúng ta trò chuyện, và nhấc lên nhấc xuống cho ấm áp.

Ân nhìn xéo tôi cười diễu:

- Mấy ông "Vịt Cừu" hay nói phét lắm đấy. "Trông ngon lành, cành đào" thế này, bảo biết viết văn tôi tin, chứ vào bếp, và những công việc nặng nhọc, làm thế quái nào được?

- Ông cứ đùa. Những thằng ở Đức càng lâu, nấu ăn càng giỏi. Cái gì cũng phải học, phải biết. Và những thằng tự hành nghề lâu năm như tôi, ở Đức gọi là: Những kẻ không được quyền nghỉ ốm nhé!

- Vậy thì, tôi mang chậu thau với kiềng bếp lên giữa nhà ngồi cho sạch. Củi than còn một đống ở góc sân, vô tư đốt hết đêm nay.

Nhìn vẻ ngoài, và lần đầu tiếp xúc, có lẽ ai cũng nghĩ, Ân là người cứng rắn, ăn to nói lớn. Vậy mà, mới vài tuần rượu, con người hắn hoàn toàn đổi khác. Thấy hắn trầm ngâm, nhưng rượu cứ nhát một, tôi buột miệng hỏi, nguyên do về cái chết của con gái hắn. Hắn bảo:

- Chuyện đau đớn và rắc rối lắm, nếu muốn hiểu, thì phải bắt đầu từ mấy chục năm về trước.

- Vậy thì kể đi, và khóc được thì cứ khóc, tức thì chửi, tôi nghe. Đỡ ấm ức một chút cũng nhẹ người, có khi ông giảm được nỗi đau, tôi lại viết được một truyện ngắn chứ chẳng chơi…

*

Tháng mười 1976, tròn mười bảy tuổi, hắn đã trở thành một người lính, và là một trong những người lính mới đầu tiên, kể từ sau 30-4-1975 của Sư 31 Quân đoàn 3. Đang theo các đàn anh đánh đấm ở biên giới Tây Nam và Campuchia, được tin giặc Tàu bất ngờ tấn công và tàn sát nhân dân sáu tỉnh biên giới. Chiến tranh bùng nổ. Đơn vị hắn nhận lệnh hành quân gấp ra chi viện cho mặt trận phía Bắc. Sau một thời gian phòng thủ tuyến bắc Sông Cầu, hắn nhận lệnh chuyển đơn vị, và chiến đấu trên mặt trận Vị Xuyên. Và từ đó, hắn trở thành một trung đội trưởng dạn dày kinh nghiệm, với những trận đánh kinh hoàng trên các cao điểm 772, 685… được mệnh danh là đồi băm thịt, trong cuộc phản công tái chiếm đất vào những năm 1984, 1985. Có trận trung đội chỉ còn vài, ba người sống sót, trên mình găm đầy những vết thương. Và hắn đã phát điên, nhưng nhắc đến tên đồng đội hắn giật mình tỉnh lại. Trung đội bổ được sung quân, phần đông vẫn là lính mới. Những người lính này, bước vào trận, mà dường như vẫn còn ngơ ngác, vô tư như vừa xong một tiết học. Giữa năm 1985 Trung đoàn đã chiếm lại được một số chốt, hình thành thế phòng ngự xen kẽ, bám chặt địch, giành giật với chúng từng tấc đất. Trung đội hắn cách bộ binh của địch gần nhất, có lẽ chỉ chừng mười mét…

Đến đây, giọng hắn dường như hơi bị méo. Với chai rượu, tôi chưa kịp mở nắp, hắn đã giằng lấy, tự rót, và ực liền tù tì mấy ly. Anh Cu Lớn gật gù bảo: Những trận đánh của chú ở Vị Xuyên kinh hoàng, tàn bạo không khác gì bọn anh ở Cổ Thành Quảng Trị 1972. Nhưng các chú hơn bọn anh là được nhằm thẳng vào kẻ thù, bọn xâm lược mà bắn. Còn bọn anh, dù họng súng nào, viên đạn nào cũng là của quân ta giết quân mình. Cái đau và day dứt là ở chỗ đó, tuy cùng là những thằng lính.

Ân ngồi thu người lại, lặng im, lim dim hai tròng mắt mọng như treo những bọng nước… Không gian chùng xuống. Về khuya, trời sẫm đặc. Ngoài kia không xa, bãi tha ma với những vệt lân tinh vẫn quẹt sáng lên, thập thò như ma trơi. Gió luồn vào luồng ống của kèo nhà rít lên. Những cành cây, lá chuối đập nơi đầu hồi cứ phành phạch.

Đột nhiên, hắn quay người, tháo chiếc chân gỗ đút xuống gầm giường, miệng lẩm bẩm: Vì mày mà tao phải mất cái chân này.

Nghĩa là sao? Tôi hỏi lại hắn.

Chụm thêm mấy nhánh củi vào bếp, không trả lời tôi, nhưng câu chuyện của hắn lại được tiếp nối… như vậy…

Tuy đã chiếm lại được chốt, nhưng màu xanh của cây lá đã bị đạn pháo phạt ngang, và thiêu rụi, chỉ còn lại núi đá thẳng đứng, bị vạt bay mất chỏm. Trung đội Ân dường như phải treo mình vào những hốc, vách đá để tránh pháo kích của địch. Từ trên đỉnh đồi nhìn xuống, dưới chân trống trải như cánh đồng vừa gặt. Việc tiếp tế thức phẩm, vận chuyển tải đạn dược, thương bệnh binh vô cùng nguy hiểm dẫn đến bế tắc. Hỏa lực của địch mạnh, pháo kích dày như nan rá, không kể giờ giấc ngày đêm. Đạn pháo cày nóng ran cả sườn núi, đá vỡ vụn từng mảnh như sôi lên ùng ục, trắng xóa cả vùng đồi. Nhìn vào, Ân nghĩ, trận chiến này chẳng khác gì cái lò nung vôi nơi quê nhà.

Chưa tìm được con đường hậu cần, nên Ân nhận được lệnh, tạm thời rút quân bảo toàn lực lượng. Đánh lên đã gian nan, chết chóc khổ cực, rút xuống cũng hiểm nguy trùng trùng. Trung đội được chia ra từng nhóm nhỏ, để vượt qua tầm pháo địch, và Ân vẫn là người rút cuối cùng. Thật ra, vượt qua bãi trống, dưới tầm đạn pháo của địch, ngoài kinh nghiệm chiến trường, số phận, may rủi quan trọng không kém. Bởi, pháo kích của giặc Tàu hoàn toàn không theo giờ giấc cố định. Nhưng có lẽ, người rút cuối, thường khó khăn, nguy hiểm hơn chăng. Và đôi khi còn, mất chỉ bằng cảm tính của người lính lâu năm thực tế trên chiến trường, chứ thật khó diễn tả được bằng lời. Biết là vậy, nhưng bao giờ hắn cũng căn dặn anh em tính toán hết sức cẩn thận, nhất là lính mới.

Về đến nơi tập kết, rất may chỉ có mấy người bị thương, đã được đồng đội chuyển vào trạm phẫu thuật dọc đường. Và khi điểm lại, hắn thấy vẫn còn thiếu Ngọc Con. Nghe người cùng nhóm kể, khi nghe tiếng pháo nổ, mỗi thằng dạt ra một phía, nhưng không nghe thấy tiếng kêu, hay gọi của nó.

Có lẽ, nó đã dính… rồi. Một đồng hương của Ngọc Con, hai mắt đỏ ngầu, nói như vậy.

Ngọc người Nghệ Tĩnh trùng tên với Ngọc trung đội phó, và là lính mới, nên đồng đội ghép chữ Con vào tên cúng cơm cho dễ phân biệt. Ngọc Con được bổ sung vào đơn vị cùng với ba lính mới cùng quê. Trận đầu Ân cho Ngọc Con đi cạnh để kèm cặp. Nhưng thấy Ngọc Con run lên bần bật, lóng ngóng, đầu súng cứ chúi xuống, lại ngỏng lên, hắn văng tục, quát:

- Đ.m! Thằng C nào không sợ chết. Bom đạn có chừa thằng chó nào đâu. Tao cũng đang sợ ỉa ra quần đây. Nhưng không nhằm thẳng vào nó mà bắn, nó sẽ bắn chết tao và mày, vậy thôi.

Sau vài trận như vậy, tuy còn một chút học trò tính, nhưng Ngọc Con đã dạn, và khá bình tĩnh. 

Bàn giao trung đội cho cấp phó, Ân và Hải Nghệ Tĩnh quay lại tìm Ngọc Con. Trời rạng sáng, pháo kích của địch cũng thưa dần, nhưng đạn còn vèo vèo trên đầu. Sương mù loãng hơn. Trăng hạ huyền sáng đục, treo lơ lửng trên mỏm núi cao 1059 mờ mờ trước mặt. Đến bãi trống, hắn và Hải căng mắt nhìn. Lúc sau có tiếng động, hắn khẽ gọi, và như có tiếng trả lời. Xác định đúng là Ngọc Con, hắn và Hải bò vào. Ngọc Con bị thương ở đùi khá nặng. Có lẽ, bò về đến đây nó bị đuối sức rồi. Cả hai khoác tay Ngọc Con lên vai, kéo bò nhích từng bước. Một tràng súng nổ, đạn xéo rát bên tai, và hắn thấy lạnh nơi ống chân. Lết được vào con đường nhỏ hắn mới biết đạn đã găm ở chân, máu ra nhiều. Băng bó xong, hắn và Hải dìu Ngọc Con. Lúc này mới thấy đau, nhưng hắn vẫn nghiến răng bước đi. Được một đoạn, mồ hôi vã ra, chân hắn như khựng lại. Rất may, đơn vị cho thêm người đi tìm, cũng vừa đến nơi. Họ đưa hắn và Ngọc Con vào trạm phẫu thuật.

Cứ nghĩ, chỉ điều trị vài ba tuần, Ân sẽ trở về đơn vị. Nhưng không ngờ, vết thương tưởng là xoàng này, đã chấm dứt gần mười năm lăn lộn trên chiến trường, và đưa hắn đến đường cùng, ngõ cụt. Bởi, nơi chiến trường khốc liệt, thuốc men, phương tiện kỹ thuật hoàn toàn thiếu thốn cùng với trạm phẫu thuật di động, dẫn đến chân hắn bị nhiễm khuẩn nặng. Khi hắn được chuyển về Quân khu, thì đã muộn. Bệnh viện không thể cứu được chân của hắn, nên buộc phải cắt bỏ. Điều trị, an dưỡng, tập luyện mấy năm ở trại thương binh, Ân về phục viên.

Tôi hỏi cắt ngang lời hắn:

- Sao ông không học tiếp, rồi học đại học, hoặc học cái nghề gì phù hợp với sức khỏe. Theo tôi biết Bộ, các Sở thương binh đều có trường văn hóa, và trường đào tạo nghề?

- Ông không thể hình dung được tâm trạng chán chường của những thằng thương phế binh lúc đó. Đang chạy nhảy, đánh đấm ầm ầm, tự nhiên cụt chân, cụt tay, tập đi, tập nói như một đứa trẻ. Đêm đêm giật mình nghe những tiếng hú, tiếng kêu la, chém giết… rùng rợn của những thằng nửa tỉnh nửa mê cùng phòng, hoặc đang cởi truồng chạy nhông nhông ngoài sân, và có khi cũng là của chính mình. Ban ngày, tôi cũng thấy đồng đội tôi, thằng mất đầu, thằng mất chân, thằng bị phạt mất nửa người gọi cứu. Chúng khóc, chúng gào chúng đòi về quê hương bản quán… nhưng tôi bất lực. Và dù lúc mê hay tỉnh, tôi luôn muốn thoát, muốn từ bỏ tất cả hiện tại và dĩ vãng, để trở về với lũy tre xanh, với những con rươi, con hến…

Tôi đờ đẫn ngồi nghe, bất chợt hắn chỉ tay vào anh Cu Lớn:

- Và quả thật, đến bây giờ tôi không hiểu và cũng không thể tin, cứ ngày 30-4 hàng năm, hoặc trận Cổ Thành Quảng Trị, hay những ngày tết lễ, họ rầm rộ tổ chức mời gọi, tuyên dương công trạng những thế hệ, người lính như anh Cu Lớn đây. Còn ngày 17-2-1979, ngày 28-4-1984 trên mặt trận Vị Xuyên họ quên, và quên hẳn những thằng lính còn sống què cụt như chúng tôi. Và cả những thằng lính bơ vơ, lạnh lẽo vĩnh viễn nằm lại nơi biên thùy. Không biết hồn cốt họ giờ này trú ngụ nơi đâu… Cùng là thằng lính mà cũng có thứ hạng sao?

Anh Cu Lớn đè sự xúc động của hắn xuống, an ủi:

- Chú nói thế chỉ đúng mặt nổi, mặt ngoài của những kẻ đánh trống, khua chiêng. Còn sự thật, không riêng anh, bạn bè anh, mà có lẽ cả một thế hệ muốn quên hẳn những ngày ấy. Nhớ lại càng cảm thấy buồn và đau thôi. Những người lính chống giặc Tàu xâm lược như chú, nhân dân và lịch sử chắc chắn không bao giờ quên.

Trời gần sáng. Tiếng đôi thạch sùng đuổi cắn nhau chí chóe trên mái nhà, dường như làm cho Ân bực mình. Cầm chiếc dép hắn ném thẳng lên đó. Rồi lắp chân gỗ, hắn đứng dậy, tập tễnh đi tìm ấm đun nước pha trà. Khi quay lại, hắn giật giọng hỏi:

- Này, Đỗ Trường, đi nhiều, đọc nhiều, ông có tin vào số phận cũng như luật nhân quả không?

- Thú thật với ông, trước đây tôi hoàn toàn không tin. Nhưng từ sau 1993, tôi đã tin, và viết ngay truyện ngắn Qủa Báo, về số phận, kết cục của những kẻ đã, đang cỡi lên đầu, lên cổ người dân lương thiện, không chỉ ở Đức, mà còn cả ở trong nước. Kẻ gây gió dứt khoát sẽ gặt bão, không trước thì sau thôi.

- Nói là vậy, nhưng cái ác ngày một sinh sôi nảy nở, và những kẻ làm ác vẫn nhởn nhơ, thách thức xã hội, con người. Đến nỗi người dân đếch phân biệt được ai là chính quyền, ai là xã hội đen. Nó cứ chập chờn như một thứ ma trơi vậy. Câu chuyện của tôi và gia đình là một ví dụ:

*

Tròn ba mươi, mẹ già thúc giục, mối lái, Ân mới lập gia đình với cô gái làng bên. Rồi con cái lần lượt ra đời. Cái thiếu cái đói quấn lấy vợ chồng hắn. Tiền trợ cấp thương tật không đủ cho hắn mua thuốc khi vết thương tái phát, hoặc trái gió trở giời. Con cái lớn, học hành cao, gánh nặng càng nặng thêm trên đôi vai lệch của hắn. Khi Trâm, con gái đầu thi đỗ đại học, Ân mừng lắm. Công việc gì hắn cũng làm, từ chạy xe chở hàng đến đan lát thủ công, miễn là có tiền gửi cho con. Cũng từ tình yêu thương chiều chuộng hết mực này, bước đầu hắn góp một phần đưa con gái mình đến chỗ đua đòi, hưởng lạc. Khi nhu cầu, sự đòi hỏi quá khả năng của vợ chồng hắn, thì cô con gái sinh viên từng bước trở thành gái bao, vợ hờ cho những kẻ rửng mỡ lắm của, nhiều tiền là lẽ đương nhiên. Và từ đó, Trâm đã vuột ra khỏi tầm tay của vợ chồng hắn.

Năm học cuối, Trâm có thai, nghe đâu với gã buôn đất, gốc gác người Nghệ Tĩnh. Dù đã xác định trước điều này, nhưng hắn vẫn sốc và đau. Cố nín nhịn, vợ chồng Ân về Hà Nội tìm con gái. Đứng trước căn biệt thự có hai con Becgie to vật vã gác cửa gầm gừ, như ăn tươi nuốt sống hắn. Tiếng cãi cọ, mạt sát nhau của con gái và gã tình nhân vọt ra cửa, hắn cảm thấy như bị xúc phạm. Mấy lần định bước đi, nghĩ đến con, vợ chồng hắn cố dằn lòng.

Trâm ngạc nhiên, và bối rối khi thấy bố mẹ đột ngột đến. Có lẽ, nghe thấy tiếng người lạ, từ trên lầu gã tình nhân huỳnh huỵch chạy xuống. Ân quay người, làm cho gã đứng khựng lại. Ngẩn người một lúc, Ân cũng nhận ra, và sửng sốt chưa kịp kêu tên Ngọc Con, thì gã đã đi như chạy ra cổng.

Vậy là, sau hơn hai chục năm, kể từ ngày cứu Ngọc Con, rồi bị thương cụt chân, và trở về với đời thường, hắn không hề gặp lại, hoặc có tin tức gì về nó. Để rồi, hôm nay gặp lại nó trong hoàn cảnh tréo ngoe, thật khó khăn và nhục nhã này. Mãi đến mấy tháng gần đây, gặp lại một số đồng đội cũ, hắn mới biết rõ hơn về Ngọc Con. Hết thời gian an dưỡng ở trại thương binh, Ngọc Con tiếp tục học đại học. Sau khi tốt nghiệp, gã về làm cho Chi cục Hải quan Nghệ Tĩnh một thời gian, rồi bỏ việc, nghe nói, sang Lào buôn bán, làm ăn. Không ai biết, Ngọc Con làm gì. Nhưng mấy năm sau, thấy gã xuất hiện toàn với những tai to mặt lớn trong giới sang giàu, ôm vai bá cổ tuốt tuồn tuột từ cấp trung ương đến các cấp lãnh đạo đầu tỉnh, thành địa phương. Thế là đất đai, dự án rót cả vào túi gã. Dọc đất nước này, trong giới bất động sản, có lẽ không ai, không biết Ngọc Con, và cái tính bệnh hoạn của gã. Bởi, gã chỉ mồi chài bồ bịch, bao nuôi nữ sinh viên đại học, và ở hầu hết các thành phố lớn.

Khuyên con gái trở về quê sinh nở, năm sau sẽ học tiếp, không được, vợ chồng Ân chán nản. Và dường như có linh cảm chẳng lành, hắn nhiều lần liên lạc, muốn nói chuyện với Ngọc Con, nhưng gã đều trốn tránh. Vài tháng sau, vợ chồng hắn đứng người, nhận tin con gái bị chết đuối nước dưới hồ. Vậy là, một người chết hai mạng đi. Hắn hoàn toàn không tin như vậy, bởi con gái hắn sinh ra lớn lên trên miền sông nước, nên bơi lội rất giỏi. Mẹ hắn biết chuyện trở nên lẩn thẩn, mấy tháng sau cũng qua đời… 

Và đến đây, có lẽ quá xúc động hắn dừng lại, nhưng vẫn quay sang tôi bảo:

- Con gái hư hỏng, xa đọa dẫn đến cái chết là lỗi tại vợ chồng tôi thiếu quan tâm và quản giáo, có lẽ ân hận cho đến chết ông ạ.

Trời sáng hẳn, tôi nhìn rõ hơn nước mắt còn chưa kịp khô trên quầng mắt thâm nhăn của hắn, và chỉ biết an ủi:

- Ông không nên dằn vặt mình nữa. Cháu đã là sinh viên đại học, đủ nhận thức, và trách nhiệm những hành động, việc làm của bản thân. Mình làm sao theo nó mãi được.

Sao lúc đó ông không thuê luật sư làm rõ cái chết của cháu?

Hắn im lặng, rồi trả lời nhát gừng:

- Chính quyền là nó, xã hội đen cũng là nó, kiện vào mắt à…

Leipzig ngày 8-3- 2017



Bình Luận

Thời Sự

Chuyên đề

 
http://danlambaovn.blogspot.com/search?max-results=50
Copyright © 2014 Dân Làm Báo