Chấn Minh (Danlambao) - Lời Giới Thiệu:
George Soros là một tỷ phú người Mỹ gốc Hungary. Sinh năm 1930, ông đào thoát được và tị nạn sang Anh Quốc vào năm 1947, tức là ba năm sau sau khi Hồng Quân của Liên Xô đánh đuổi được quân đội Đức Quốc Xã đã chiếm đóng Hungary trong Thế Chiến Thứ Nhì. (1939-1945). Lý do chính mà thiếu niên 17 tuổi George Soros đã phải trốn sang Anh Quốc là vì ông không muốn sống dưới ách đô hộ độc tài của Liên Xô vào lúc đó đang biến Hungary từ một nước độc lập tự chủ thành một nước chư hầu sau bức Màn Sắt. Sau khi đến được Anh Quốc, Soros đã làm bồi bàn, người hái trái táo, phu khuân vác tại các trạm xe lửa, để đồng thời đi học đại học tại Trường Kinh Tế Luân Đôn (London School of Economics) cho đến khi tốt nghiệp phó tiến sĩ về triết học. Vài năm sau khi được một ngân hàng thương mại ở London nhận làm việc, ông đã di dời qua Hoa Kỳ và từ đó, đã thành công rất lớn trong ngành kinh doanh tài chính.
Soros là sáng lập viên/chủ nhân nhiều quỹ phòng trợ (hedge fund) rất thành công, đến mức giá trị ròng (net worth) của ông vào tháng 3 năm 2019 là 8.3 tỷ USD, tuy rằng vào năm 2014 con số này đã là 24 tỷ USD. Lý do giá trị ròng của ông đã giảm xuống như thế là vì tính đến ngày hôm nay, trung thành với giấc mơ sống và giúp người khác sống tự do trong một xã hội mở - một giấc mơ mà ông đã có từ lúc còn rất trẻ và đã được ông bồi đắp cũng cố trong thời gian ông học triết ở Trường Kinh Tế Luân Đôn - ông đã đổ 32 tỷ USD vào các hoạt động chính trị ông ưa thích. Các hoạt động này chủ yếu là hỗ trợ cho các cho phong trào xã hội mở khắp mọi nơi trên thế giới. Trong thời khoản 2003-2016, ông đã chọn cho đảng Dân Chủ trên 33 triệu USD . Số tiền lớn này - nhưng thực sự là không đáng kể so 32 tỷ đã kể trên - đã được dùng để chống lại George Bush tranh cử tổng thống, ủng hộ Obama tái tranh cử vào năm 2012 và giúp Hillary Clinton tranh cử chống lại Donald Trump vào năm 2016. Vì các lựa chọn chính trị này, cánh phải của chính giới Hoa Kỳ không ưa thích gì ông Soros. Tuy đây không phải là lúc đi vào các huyền thoại và lý thuyết âm mưu mà các kẻ thù của ông đã gắn liền với cái tên ông, một lý do lớn cánh phải thù ghét George Soros chính là việc ông chống lại tất cả các biểu tượng của chủ nghĩa dân túy (populism) đang lan tràn khắp thế giới.
Bài diễn văn sau của ông George Soros quan trọng đối với người Việt và bất cứ ai quan tâm đến Trung Quốc. Đọc tại Davos, Thụy Sĩ, vào cuối tháng Giêng 2019, trong bài diễn văn này Soros nhắc lại hành trình của ông từ một thiếu niên vượt biên tị nạn cộng sản vào lúc 17 đến khi trở thành ông một trong những người giàu nhất thế giới; vạch rõ nguy cơ các xã hội mở, và do đó cả thế giới, phải đối đầu một khi Trung Quốc liên kết được với các đại công ty giàu dữ liệu trong ngành tin học để thiết kế và hoàn hảo một chế độ toàn trị mà ngay cả George Orwell, tác giả của cuốn sách khoa học giả tưởng “1984” cũng không nào thể tưởng tượng là có thể có được; và đề xuất một phương pháp đối trị các tham vọng bá quyền của Trung Quốc.
Biết đâu mai sau, từ tập thể những người Việt Nam tị nạn cộng sản tại Tây Phương, sẽ có một người làm được những gì ông George Soros đã làm, tức là giúp người Việt thoát khỏi ách đô hộ của Trung Quốc và trả lại cho từng người Việt tự do và nhân quyền trong một xã hội mở?
*
Phát Biểu Tại Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới, Davos, Thụy Sĩ, 2019-01-24.
Davos, Thụy Sĩ, 24 Tháng Giêng, 2019
Kính chào buổi tối và xin cám ơn tất cả các quý vị đã đến.
Tôi muốn dùng thời gian tôi có tối hôm nay để cảnh báo quý vị về một nguy cơ xưa nay chưa hề có và đang đe dọa ngay cả sự sống còn của các xã hội mở.
Năm trước khi đứng trước quý vị tôi đã dùng hầu hết thời gian tôi có để phân tích vai trò bất chính của các tổ chức độc quyền trong ngành tin học. Vào lúc đó, tôi đã nói như thế này: “Một liên minh giữa các nhà nước độc tài và các tổ chức tin học độc quyền giàu dữ liệu đang manh nha, liên minh này sẽ gom lại các hệ thống giám sát doanh nghiệp đang hình thành cùng các hệ thống giám sát nhà nước đang được phát triển và tài trợ. Kết quả của liên minh này rất có thể là một mạng lưới kiểm soát toàn trị mà ngay cả George Orwell cũng không thể nào tưởng tượng được”.
Tối nay, tôi muốn kêu gọi mọi người hãy chú ý đến nguy cơ diệt vong mà các xã hội mở sẽ phải đối đầu từ các công cụ kiểm soát mà công nghệ học máy và trí khôn nhân tạo có khả năng trao tận tay các chế độ đàn áp. Tôi sẽ tập trung nói về Trung Quốc, nơi mà Tập Cận Bình Đang muốn có một nhà nước độc đảng trị vì ở vị thế tối cao nhất.
Rất nhiều chuyện đã xảy ra kể từ năm vừa qua và tôi đã học được khá nhiều về hình thù của sự kiểm soát toàn trị đang hình thành tại Trung Quốc.
Tất cả các thông tin có được và ngày càng nhiều về một cá nhân sẽ được tập trung vào một cơ sở dữ liệu trung ương để tạo dựng một “hệ thống tín dụng xã hội”. Từ các dữ liệu đó, một người sẽ được đánh giá bởi các thuật toán, và các thuật toán này sẽ quyết định người đó có thể là một mối đe dọa cho nhà nước độc đảng hay không. Sau đó, họ sẽ được đối xử tương xứng.
Vào lúc này, hệ thống tín dụng xã hội trên vẫn chưa hoạt động đầy đủ, nhưng hướng đi của nó đã hiện rõ. Hệ thống tín dụng xã hội này sẽ đặt số phận của con người dưới các quyền lợi của nhà nước độc đảng một cách chưa từng có trong lịch sử.
Tôi thấy hệ thống tín dụng xã hội khủng khiếp và đáng ghét. Điều không may là, một số người Trung Quốc lại xem hệ thống này có vẻ khá hấp dẫn, bởi vì nó cung cấp các thông tin và dịch vụ vào lúc này chưa ai có được, và bởi vì nó cũng bảo vệ các công dân biết tôn trọng luật pháp khi nó chống lại các kẻ thù của nhà nước.
Trung Quốc không phải là nước độc tài độc nhất trên thế giới, nhưng có một điều không nghi ngờ được là Trung Quốc là nước giàu nhất, mạnh nhất và phát triển nhất trong ngành học máy và trí khôn nhân tạo. Điều này khiến cho Tập Cận Bình trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của những ai tin vào khái niệm xã hội mở. Nhưng họ Tập không đơn độc. Các chế độ độc tài đang lan tràn khắp mọi nơi trên thế giới và nếu thành công, các chế độ này sẽ trở thành những chế độ toàn trị.
Là sáng lập viên của các Cơ Sở Xã Hội Mở, tôi đã dành cả đời tôi để chống lại các ý thức hệ toàn trị và quá khích, tức là các ý thức hệ đã rêu rao láo lếu là cứu cánh biện minh cho phương tiện. Tôi tin rằng khát vọng tự do của con người không thể nào bị đàn áp mãi mãi. Nhưng tôi cũng nhìn nhận được là vào lúc này các xã hội mở đang có nguy cơ tuyệt chủng sâu sắc.
Một điều làm cho tôi rất áy náy là các công cụ kiểm soát do trí khôn nhân tạo phát triển đang cho các chế độ độc tài một lợi thế nội tại trên các xã hội mở. Với các chế độ này, các công cụ kiểm soát là những dụng cụ có ích lợi; với các xã hội mở, các công cụ này là một đe dọa sinh tử.
Tôi dùng các từ “xã hội mở” như là một tốc ký cho một xã hội trong đó luật pháp chiếm ưu thế và vai trò của nhà nước là bảo vệ các nhân quyền và tự do cá nhân, đối nghịch lại với sự cai trị của chỉ một cá nhân. Ý kiến riêng của tôi là, một xã hội mở phải đặc biệt quan tâm đến những ai đang đau thương vì bị kỳ thị hay bị đẩy ra ngoài rìa xã hội và những ai không có cách nào để tự vệ được.
Ngược lại, các chế độ độc tài dùng bất cứ công cụ kiểm soát nào mà chúng có được để duy trì quyền lực của chúng trên những người chúng bóc lột và áp bức.
Làm thế nào để bảo vệ các xã hội mở nếu các công nghệ mới này cho phép các chế độ độc tài một lợi thế nội tại? Đây chính là câu hỏi đang làm tôi bận tâm. Và đó cũng là câu hỏi mà tất cả những người thích sống trong một xã hội mở cũng nên bận tâm.
Các xã hội mở cần phải điều tiết các doanh nghiệp sản xuất các công cụ kiểm soát, trong khi đó các nhà nước độc tài có thể gọi chúng là những “quán quân quốc gia”. Đây chính là lý do tại sao một số doanh nghiệp quốc doanh của Trung Quốc đã tiến lên ngang hàng với, thậm chí còn vượt qua, các doanh nghiệp đa quốc khổng lồ.
Đương nhiên đây không phải là vấn đề độc nhất mà chúng ta phải quan tâm vào ngày hôm nay. Một ví dụ là các thay đổi khí hậu do con người gây nên đang đe dọa sự sống còn của nền văn minh của chúng ta. Nhưng mà sự bất lợi cơ cấu mà các xã hội mở phải đối đầu là một vấn đề tôi đã bận tâm nhiều và tôi muốn chia sẻ cùng quý vị các ý kiến của tôi về cách đối phó với các bất lợi đó.
Mối quan ngại rất sâu sắc của tôi về vấn đề trên bắt nguồn từ lịch sử cá nhân của tôi. Tôi sinh ra năm 1930 tại Hungary và tôi là một người Do Thái. Khi tôi 13 tuổi, các người Đức Quốc Xã chiếm đóng Hungary và họ đã bắt đầu trục xuất người Do Thái vào các trại tàn sát người để diệt chủng.
Năm 1944 là năm mà kinh nghiệm sống của tôi hình thành. Tôi đã sớm học được điều sau: bản chất của chế độ chính trị quan trọng như thế nào một khi chế độ đó chiếm được thượng phong. Khi chế độ chiếm đóng của Liên Xô thay thế chế độ Đức Quốc Xã, tôi rời bỏ Hungary vào thời điểm sớm nhất mà tôi có thể làm được và tôi đã tìm được một nơi ẩn náu tại Anh Quốc.
Tại Trường Kinh Tế London, tôi phát triển được một khung khái niệm dưới ảnh hưởng của người hướng dẫn của tôi, Karl Popper. Một điều tôi đã không tiên liệu được là khung khái niệm đó đã rất có ích sau khi tôi tìm được việc làm trong các thị trường tài chính. Khung khái niệm này hoàn toàn không dính dáng gì đến tài chính, nhưng nó có nền tảng là tư duy phê phán. Khung này cho phép tôi phân tích các thiếu sót của các lý thuyết đang thịnh hành và đang được dùng để hướng dẫn các tổ chức chuyên về đầu tư. Tôi trở thành nhà quản lý thành công của một quỹ phòng hộ và tôi tự hào tôi là nhà phê bình được trả lương cao nhất thế giới.
Quản lý một quỹ phòng hộ rất căng thẳng. Một khi tôi đã kiếm được nhiều tiền hơn tôi hay gia đình tôi cần, tôi trải qua một cuộc khủng hoảng giữa đời. Tại sao tôi phải làm việc quá độ đến chết để kiếm thêm tiền? Tôi suy nghĩ lâu và sâu sắc về những gì tôi thật sự trân quý và vào năm 1979 tôi thành lập Quỹ Xã Hội Mở. Tôi định nghĩa các mục tiêu của nó là giúp các xã hội đóng trở thành mở, giảm thiểu các thiếu sót của các xã hội mở, và cổ vũ cho tư duy phê phán.
Các cố gắng đầu tiên của tôi là tìm cách làm suy yếu chế độ kỳ thị chủng tộc triệt để apartheid tại Nam Phi. Sau đó tôi chú tâm vào việc làm cho hệ thống Xô Viết cởi mở hơn. Tôi lập ra một tổ chức liên hiệp với Hàn Lâm Viện Khoa Học Hungary, vào lúc đó đang được cộng sản kiểm soát, nhưng mà các đại biểu đã bí mật có cảm tình với các cố gắng của tôi. Cách dàn xếp làm việc này thành công trên cả những giấc mơ hoang dã nhất của tôi. Tôi đã bị cuốn hút vào cái mà tôi thích gọi là “từ thiện chính trị”. Đó là vào năm 1984.
Vào những năm sau, tôi tìm cách lập lại thành công của tôi ở Hungary tại nhiều nước cộng sản khác. Tôi làm như thế khá tốt tại đế quốc Xô Viết, ngay cả tại Liên Xô, Nhưng tại Trung Quốc thì câu chuyện lại khác hẳn.
Cố gắng đầu tiên của tôi tại Trung Quốc đã có vẽ đầy hứa hẹn. Các việc đã làm vào lúc đó là tổ chức các cuộc thăm viếng trao đổi giữa các kinh tế gia người Hungary đã nổi tiếng và được ngưỡng mộ trong thế giới cộng sản, và một nhóm người từ một viện nghiên cứu mà Trung Quốc vừa mới thành lập và muốn học hỏi với các người Hungary.
Dựa trên thành công ban đầu đó, tôi đề nghị với Trần Nhất Tư (Chen Yizi), nhà lãnh đạo viện nghiên cứu kể trên, là hãy lập lại mô hình Hungary tại Trung Quốc. Ông Trần lấy được sự ủng hộ của Thủ Tướng Trương Tử Dương (Zhao Ziyang) và Bí Thư về chính sách, ông Bảo Đồng (Bao Tong), một người có đầu óc cải tiến.
Một liên doanh tên là Quỹ Trung Quốc được khánh thành vào tháng Mười 1986. Đây là một định chế không giống bất cứ định chế nào tại Trung Quốc. Trên giấy tờ, định chế này hoàn toàn tự trị.
Bảo Đồng là quán quân thúc đẩy định chế đó. Nhưng mà những kẻ chống lại các cải cách cấp tiến và mạnh dạn - và những người này không ít - đã hợp sức lại để tiến công ông Bảo Đồng. Chúng rêu rao rằng tôi là người của CIA và yêu cầu cơ quan nội an điều tra. Để tự bảo vệ, Triệu Tử Dương đưa một viên chức cao cấp trong ban cảnh sát đối ngoại lên thay thế Trần Nhất Tư. Vào lúc đó hai tổ chức này ngang hàng nhau và không thể nào can thiệp vào nội bộ lẫn nhau.
Tôi chấp thuận thay đổi kể trên vì tôi bực mình khi Trần Nhất Tư tài trợ quá nhiều người trong viện nghiên cứu của ông, và vì tôi đã không biết gì về các đấu đá chính trị ở phía sau hậu trường. Nhưng các người nộp đơn xin Quỹ Trung Quốc tài trợ đã nhận thấy tổ chức này đã rơi vào vòng kiểm soát của cảnh sát chính trị và họ bắt đầu tránh xa ra. Không ai đã có can đảm nói cho tôi biết lý do tại sao chuyện đó đã xảy ra.
Sau cùng, một người Trung Quốc đã được Quỹ Trung Quốc tài trợ đến thăm tôi ở New York và nói cho tôi biết chuyện đó, bất chấp các rủi ro lớn có thể đến với ông. Không bao lâu sau đó, Triệu Tử Dương mất quyền lực và tôi dùng cớ đó để đóng cửa cơ sở. Việc này xảy ra ngay trước vụ tàn sát ở Thiên An Môn vào năm 1989 và đã để lại một “vết đen” trong hồ sơ của những người có quan hệ với cơ sở. Các người này đã mất rất nhiều công sức để phục hồi thanh danh của họ và rốt ráo họ cũng đã thành công.
Khi nhìn lại, rỏ ràng là tôi đã sai lầm khi tìm cách thành lập một cơ sở được vận hành dựa trên những phương pháp ngoại lai đối với người Trung Quốc. Vào lúc đó, việc cấp vốn tạo nên một nghĩa vụ ràng buộc bên cho vào bên nhận và ép hai bên phải mãi mãi trung thành với nhau.
Nói chuyện lịch sử như thế cũng quá nhiều rồi. Bây giờ hãy cho phép tôi quay sang các sự cố đã xảy ra năm ngoài, trong đó có một số việc đã làm tôi kinh ngạc.
Khi tôi bắt đầu đi Trung Quốc, tôi gặp nhiều người ở trong những chức vụ có quyền lực và họ nhiệt thành tin tưởng vào các nguyên lý của xã hội mở. Khi còn trẻ, họ là những người đã bị trục xuất về nông thôn để được cải tạo, lắm khi họ đã phải cam chịu những khó khăn lớn hơn các khó khăn tôi đã trải nghiệm tại Hungary. Nhưng họ đã sống sót và chúng tôi có khá nhiều điểm tương đồng. Chúng tôi đều đã là những người đã từng được một chế độ độc tài chiếu cố.
Họ rất hồ hởi khi muốn học hỏi tư tưởng của Karl Popper về xã hội mở. Tuy họ phát hiện ra là khái niệm xã hội mở rất hấp dẫn đối với họ, cách họ giải thích khái niệm này vẫn có đôi chút khác biệt so với cách giải thích của tôi. Họ quen thuộc với truyền thống Khổng Giáo, nhưng tại Trung Quốc không có truyền thống bầu cử. Cách suy nghĩ của họ vẫn mang tính đẳng cấp và trong đó có sự kính trọng dành các chức vụ cao cấp. Tôi, trái lại, yêu chuộng sự bình đẳng và muốn mọi người ai cũng có một lá phiếu.
Thế thì, tôi không ngạc nhiên khi Tập Cận Bình gặp chống đối đáng kể trong nước, nhưng mà điều làm cho tôi ngạc nhiên là hình thức các chống đối này đã có được. Trong cuộc họp mùa hè tại khu nghỉ mát Bắc Đại Hải, hình như họ Tập đã bị phê phán hay xài xể một hay hai lần. Mặc dầu không có một thông báo chính thức nào, người ta đồn rằng tại cuộc đối lưu đó, các người hiện diện đã không hài lòng với việc bãi bỏ giới hạn nhiệm kỳ và sự sùng bái cá nhân mà họ Tập đã xây dựng quanh ông ta.
Cần nhận thức điều quan trọng là các lời phê bình đó chỉ là một cảnh báo cho Tập về các việc làm quá mức của ông ta, chứ không phải là để làm ngược lại, tức là thiết lập lại giới hạn hai nhiệm kỳ. Hơn nửa, “Tư Tưởng Tập Cận Bình”, mà ông ta đã quảng cáo là tinh hoa của lý thuyết Cộng Sản, đã được nâng lên ngang hàng với “Tư Tưởng Chủ Tịch Mao”. Và như thế, Tập vẫn còn là nhà lãnh đạo tối cao, có thể là suốt đời. Kết cục tối hậu cho cuộc đấu đá nội bộ vào lúc này vẫn chưa ai biết.
Tôi đã chú tâm nhiều về Trung Quốc, nhưng các xã hội mở còn có rất nhiều kẻ thù khác, trong đó đứng đầu sổ là nước Nga của Putin. Và kịch bản nguy hiểm nhất xảy ra khi các kẻ thù đó cùng âm mưu với nhau, và cùng học hỏi lẫn nhau về các phương pháp tốt nhất để áp bức người dân trong nước họ.
Một câu hỏi hiển nhiên là, chúng ta làm được gì để ngăn chặn chúng?
Bước đầu tiên là phải nhận thấy được nguy cơ. Chính vì thế mà tôi đã lên tiếng tối hôm nay. Nhưng mà khó khăn là ở chỗ này. Những ai trong chúng ta muốn bảo tồn xã hội mở phải làm việc cùng nhau và xây dựng một liên minh hữu hiệu. Chúng ta có một việc phải làm và việc này thì không thể nào để cho các chính phủ làm được.
Lịch sử đã chứng minh rằng ngay cả những nhà nước muốn bảo vệ tự do cá nhân vẫn còn có nhiều quan tâm khác, và giữa tự do cho người dân nước nước họ và tự do cá nhân trên nguyên tắc, ưu tiên của họ sẽ là người dân trong nước họ.
Các Cơ Sở Xã Hội Mở của tôi có mục tiêu là bảo vệ nhân quyền, đặc biệt là nhân quyền của những ai không có một nhà nước để bảo vệ họ. Bốn thập niên về trước lúc mà chúng tôi khởi sự, có nhiều nhà nước đã hỗ trợ chúng tôi nhưng vào lúc này số các nhà nước đó đã giảm đi. Hoa Kỳ và u Châu đã từng là những đồng minh mạnh nhất của chúng tôi, nhưng bây giờ thì họ bận tâm về những vấn đề riêng của họ.
Vì thế, tôi muốn tập trung vào một câu hỏi mà tôi nghĩ là quan trọng nhất cho các xã hội mở: Chuyện gì sẽ xảy ra tại Trung Quốc?
Chỉ có người Trung Quốc mới có thể trả lời câu hỏi trên. Tất cả những gì mà chúng ta có thể làm được là vạch rõ sự khác biệt giữa người dân Trung Quốc và Tập Cận Bình. Vì Tập đã tuyên bố là ông ta thù địch với xã hội mở, chỉ còn có người dân Trung Quốc là nguồn hy vọng chính của chúng ta.
Và thật ra, có cơ sở để hy vọng. Như một số chuyên gia về Trung Quốc đã giải thích cho tôi, có một truyền thống trong đạo Khổng theo đó các cố vấn của hoàng đế cần phải lên tiếng một khi họ bất đồng ý mạnh mẽ với các hành vi hay quyết định của hoàng đế, cho dù khi lên tiếng như thế họ sẽ bị lưu đày hay tử hình.
Điều này làm tôi rất sảng khoái khi mà tôi hầu như đã tuyệt vọng. Các người đã quyết tâm bảo vệ xã hội mở tại Trung Quốc, những người cùng tuổi với tôi, đa số đã nghỉ hưu và thay thế họ là những người trẻ đang phụ thuộc vào Tập Cận Bình để được lên chức. Nhưng một nhóm chính trị gia ưu tú đã nổi lên và họ muốn và sẵn sàng nâng cao các truyền thống của đạo Khổng. Điều này có nghĩa là họ Tập sẽ có người chống lại về mặt chính trị ngay tại trong nước.
Tập giới thiệu Trung Quốc như là một hình mẫu để cho các nước khác thi đua theo, nhưng ông ta đang đối đầu với phê bình không những ở trong nước mà còn ở ngoài nước. Thời gian Đề Án Vòng Đai Con Đường của ông ta đi vào hoạt động đã dài đủ để người ta có thể thấy được các thiếu sót của nó.
Đề án này đã được thiết kế để có lợi cho Trung Quốc, chứ không có lợi của các nước thụ hưởng; các dự án hạ tầng cơ sở được tài trợ qua chủ yếu là tiền vay, chứ không phải là tiền viện trợ, và các viên chức nước ngoài lắm khi đã được hối lộ để chấp nhận các dự án này. Nhiều dự án này về sau đã được chứng minh là không có cơ sở kinh tế.
Một trường hợp điển hình là Sri Lanka. Tại đó, Trung Quốc đã thiết kế một hải cảng nhằm phục vụ các yêu cầu chiến lược của Trung Quốc. Vì không thu hút đủ số lượng giao thông buôn bán cần thiết để có đủ tiền trả các dịch vụ nợ, việc này đã cho phép Trung Quốc chiếm hữu hải cảng này. Có nhiều trường hợp tương tự tại các nơi khác và các trường hợp này đã gây rất nhiều oán hận.
Malaysia là nước dẫn đầu trước trong việc đẩy lùi này. Chính phủ tiền nhiệm của Najib Razak đã bán đứng Malaysia cho Trung Quốc nhưng vào tháng Năm 2018, một liên minh do ông Mahathir Mohamad lãnh đạo đã thắng phiếu và loại bỏ được chính phủ của Razak. Mahathir đã lập tức đình chỉ nhiều dự án hạ tầng cơ sở và vào lúc này đang thương lượng với Trung Quốc để xác định trị giá các bồi thường Malaysia vẫn còn phải trả.
Tất cả các thất bại trên đã buộc Tập Cận Bình phải thay đổi thái độ về Đề Án Vòng Đai Con Đường. vào tháng Chín, ông cho biết các “dự án làm dáng” sẽ bị bỏ ra và thay thế bằng những dự án được thai nghén cẩn thận hơn và vào tháng Mười, Nhân Dân Nhật Báo cảnh báo rằng các dự án phải phục vụ quyền lợi của các nước nhận dự án.
Các nước khách hàng nay đã được cảnh báo trước và nhiều nước đó – từ Sierra Leone đến Ecuador – đang đặt lại vấn đề hay thương lượng lại các dự án.
Quan trọng hơn hết, vào,lúc này chính phủ Hoa Kỳ đã nhận diện Trung Quốc là một “đối thủ chiến lược”. Tổng thống Trump là một tay khét tiếng về việc các hành vi của ông ta không thể đoán trước được, nhưng quyết định này là kết quả của một kế hoạch đã được chuẩn bị một cách cẩn thận. Kể từ lúc đó, các hành vi khó hiểu của Trump chủ yếu là đã được thay thế bằng một chính sách Trung Quốc đã được các cơ quan nhà nước chấp nhận và do Cố Vấn Á Đông Vụ Matt Pottinger giám sát. Trong một bài diễn văn quan trọng vào ngày 4 tháng 10 năm 2018, phó tổng thống Mike Pence đã phác thảo chính sách kể trên.
Mặc dù vậy, tuyên bố Trung Quốc là một đối thủ chiến lược vẫn quá giản đơn. Trung Quốc là một diễn viên toàn cầu quan trọng. Một chính sách có hiệu lực để đối đầu với Trung Quốc không thể nào thu gọn vào trong một khẩu hiệu.
Một chính sách như thế cần phải tinh vi, chi tiết và thực dụng rất nhiều hơn; và nó phải có một phản ứng của Hoa Kỳ về mặt kinh tế đối với Đề Án Vòng Đai Con Đường. Kế hoạch Pottinger không trả lời được câu hỏi mục tiêu tối hậu của nó là gì: san bằng sân chơi hay là rút lui không chơi với Trung Quốc nửa.
Tập Cận Bình hiểu rất rõ việc chính sách mới của Hoa Kỳ đe dọa sự lãnh đạo của ông. Ông ta đã đánh cuộc khi gặp riêng tổng thống Trump vào kỳ họp G20 tại Buenos Aires. Trong lúc đó, các hiểm họa của một chiến tranh mậu dịch toàn cầu leo thang và thị trường chứng khoán rơi và tình trạng bán tháo trầm trọng và tháng Mười Hai. Việc này gây nhiều khó khăn cho Trump khi mà ông ta phải dồn mọi cố gắng vào kỳ bầu cử giữa nhiệm kỳ vào năm 2018. Khi Trump và Tập gặp nhau, cả hai bên đều háo hức muốn có một thỏa thuận. Vì thế không có gì ngạc nhiên khi họ đạt được một thỏa thuận: một đình chiến 90 ngày, cho dù thỏa thuận này không kết luận hay giải quyết được gì nhiều.
Trong lúc đó, có những chỉ dấu rõ rệt là nền kinh tế Trung Quốc đang xuống dốc về mọi mặt, và việc này sẽ có ảnh hưởng đến toàn thế giới. Trì trệ kinh tế toàn cầu là một điều mà thị trường chứng khoán không bao giờ muốn có.
Hợp đồng xã hội mà không ai nói ra tại Trung Quốc có cơ sở là mức sống phải ngày càng tăng lên đều. Nếu nền kinh tế và sàn chứng khoán Trung Quốc xuống dốc trầm trọng đến một mức nào đó, hợp đồng xã hội trên sẽ bị làm suy yếu đi và khi đó, ngay cả cộng đồng kinh doanh cũng có thể chống lại Tập Cận Bình. Sự xuống dốc kể trên còn có thể là hồi chuông báo tử của Đề Án Vòng Đai Con Đường, vì Tập sẽ hết tài nguyên để tiếp tục tài trợ quá nhiều đầu tư thua lỗ.
Về câu hỏi phải quản lý mạng internet toàn cầu thế nào, hiện nay đang có một cuộc tranh chấp không khai báo giữa Tây Phương và Trung Quốc. Trung Quốc muốn áp đặt các luật lệ và thủ tục được dùng để quản lý nền kinh tế số bằng cách thống trị các nước đang phát triển qua những kỹ thuật nền và các công nghệ mới của Trung Quốc. Đây là một đe dọa cho tự do trên mạng internet và một cách gián tiếp, cho chính xã hội mở.
Vào năm trước, tôi đã vẫn còn tin là Trung Quốc cần phải hội nhập sâu sắc hơn nửa với các định chế cai quản toàn cầu, nhưng về sau các hành vi của Tập Cận Bình đã làm tôi phải thay đổi ý kiến. Quan điểm của tôi lúc này là, thay vì gây thương chiến với toàn thể thế giới, Hoa Kỳ nên chỉ chú tâm vào Trung Quốc. Thay vì để cho ZTE và Hoa Vi (Huawei) thoát nạn và không bị thiệt hại bao nhiêu, Hoa Kỳ cần phải đánh dập chúng thật mạnh. Nếu hai doanh nghiệp này khống chế được thị trường 5G, chúng sẽ trở thành một rủi ro bảo mật không thể chấp nhận được cho phần còn lại của thế giới.
Điều đáng tiếc là, tổng thống Trump hình như đang theo đuổi một hướng đi khác: nhượng bộ với Trung Quốc và tuyên bố đã thắng trận đồng thời tăng cường tiến công vào các đồng minh của Hoa Kỳ. Hệ lụy của việc làm trên là làm suy yếu từ bên trong mục tiêu chính sách của Hoa Kỳ, tức là kiềm chế các lạm dụng và vượt quá của Trung Quốc.
Để kết luận, hãy cho phép tôi tóm lược thông điệp tôi đang nói lên vào tối nay. Điểm chính tôi muốn nói là các chế độ áp bức khi kết hợp được với các tổ chức tin học độc quyền sẽ cho các chế độ này một lợi thế nội tại trên các xã hội mở. Các dụng cụ kiểm soát là những công cụ tốt trong tay các chế độ độc tài, nhưng chúng chính là một mối đe dọa sinh tử đối với các xã hội mở.
Trung Quốc không phải là chế độ độc tài độc nhất trên địa cầu, nhưng Trung Quốc là chế độ độc tài giàu nhất, mạnh nhất, và tiến bộ nhất về mặt công nghệ. Điều này khiến cho Tập Cận Bình trở thành đối thủ nguy hiểm nhất của các xã hội mở. Vì thế, một điều rất quan trọng là phải biết phân biệt các chính sách của Tập và các nguyện vọng của người dân Trung Quốc. Hệ thống tín dụng xã hội, nếu được đưa vào hoạt động, sẽ cho Tập quyền kiểm soát toàn diện trên quần chúng. Vì Tập là kẻ thù nguy hiểm nhất của xã hội mở, chúng ta phải đặt hy vọng vào nhân dân Trung Quốc, và đặc biệt là vào cộng đồng kinh doanh và những nhà lãnh đạo chính trị ưu tú muốn sẵn sàng nâng cao các truyền thống của đạo Khổng.
Điều này không có nghĩa là chúng ta, những người tin vào một xã hội mở, phải tiếp tục ở trong một tư thế thụ động. Sự thật là chúng ta đang ở trong một Chiến Tranh Lạnh đang đe dọa trở thành một chiến tranh nóng. Mặt khác, nếu Trump và Tập không còn cầm quyền nửa, cơ hội để cho hai siêu cường cyber hợp tác với nhau sẽ tự hiện ra.
Ta có thể mơ đến một cái gì tương tự như một Hiệp Ước Liên Hiệp Quốc đã hình thành sau Đại Chiến Thế Giới Lần Thứ Nhì. Nếu được như thế, đây sẽ là một kết thúc thích đáng cho chu kỳ xung đột hiện hành giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Khi có được một kết thúc như thế, hợp tác quốc tế sẽ được tái thiết kế và các xã hội mở sẽ có cơ may khởi sắc. Đó là các ý chính của thông điệp của tôi.
Nguồn nguyên tác tiếng Anh: https://www.georgesoros.com/2019/01/24/remarks-delivered-at-the-world-economic-forum-2/